TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap IV B)

Tuesday, December 20, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập IV B 3)

Tệp 3 – Tập IV Blog B
(phân đoạn 1, truyện kí thứ 12)

Tiếp theo tệp 2 tập IV Blog A
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/


TRẦN XUÂN AN

KINH ĐÔ QUẬT KHỞI
VÀ QUỐC KẾ CHIA TÁCH – PHỐI HỢP TRIỀU CHÍNH


Truyện kí thứ mười hai
(phân đoạn 1)

1

Triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới!
Trong vài năm gần đây, sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu” đã được phụ chính Nguyễn Văn Tường vạch ra và thúc đẩy để hình thành thế trận. Thế trận đã nổ bùng với cuộc chiến tranh Trung – Pháp. Căn cứ địa Tân Sở cùng hệ thống sơn phòng, thượng đạo đã được xây dựng, tăng cường, củng cố. Nhưng đến cuối tháng tư nguyệt lịch Ất dậu (1885), khi hiệp ước Pháp – Trung do Patenôtre và Lý Hồng Chương kí kết, triều đình Đại Nam và dân tộc ta hoàn toàn bị cắt đứt tất cả mọi mối liên hệ với Trung Hoa (1). Pháp cũng còn ép triều đình tự cắt đứt liên hệ máu thịt với các đội quân kháng chiến do các quan ta lãnh đạo (2). Và những con đường thông với Xiêm La cũng bị vây bủa bởi “hàng rào “tả đạo”” do giám mục Puginier, một tên trùm gián điệp, tung các giáo sĩ sang mạn đông bắc Lào và hẳn cả Hạ Lào để gầy dựng trong mấy năm trước.
Thật ra, không chỉ Trung Hoa, cả Xiêm La (Thái Lan) lẫn Miến Điện (Myanmar) đều bị bọn Anh, Pháp, Đức, Mỹ và cả Nga… xâu xé từ lâu (3). Trung Hoa là chỗ dựa vốn đã rất tàn yếu, nhưng dẫu sao cũng còn khá hơn Xiêm La, Miến Điện. Cao Mên đã bị Pháp cột chặt, hết giẫy giụa. Lào lại bị đến hai tầng áp bức. Bọn Âu Mĩ ngồi trên thân thể mục nát Xiêm La, Xiêm La nằm trên thân phận Lào với hai bàn tay rã rời còn cố sức bấu chặt. Triều Tiên, Lữ Tống (Philipines), Hạ Châu (Mã Lai), Nam Dương (Indo-nésia)… cũng bị bọn Âu Mĩ đè nặng không khác gì! Ấn Độ khổng lồ cũng từ rất lâu rơi vào vực nô lệ! Còn Nhật Bản hùa theo bọn Âu Mỹ để vừa làm nô lệ cho bọn chúng vừa cướp bóc đồng chủng láng giềng (3)!
Sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu” là một nỗ lực không phải không hiệu quả. Triều đình nhờ thế, đã tạo được một quãng thời gian hơn một năm để xây dựng, tăng cường, củng cố căn cứ địa Tân Sở cùng hệ thống sơn phòng, thượng đạo và chấn chỉnh binh lực, tuy vẫn bị Pháp và bọn cố đạo gián điệp phá rối, ngăn trở. Đôi khi, cũng đành phải nhân nhượng các yêu sách của chúng.
Triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới!
Dẫu sao, vẫn còn dãy Trường Sơn và núi rừng Việt Bắc ngay chính trong lãnh thổ của Đại Nam ta.
Trong những ngày thượng tuần tháng năm nguyệt lịch Ất dậu (1885), hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã nhiều lần bàn thảo với nhau về tình hình mới và kế sách mới.
Một hôm, vào cuối chiều, khi ánh nắng đã dịu bớt, hai quan phụ chính đứng bên hồ Thái Dịch trước Điện Thái hoà, nhìn những đoá sen đang giữa mùa hạ, nở bừng sắc hồng, sắc trắng với làn hương ngan ngát.
- Tình hình đã rất căng thẳng. Trước sau rồi bọn Pháp cũng tấn công vào kinh thành. Tin thám báo đã tâu vào, tên tướng Pháp De Courcy đã nhiều lần họp bàn với gã Nguyễn Hữu Độ và tên cố đạo Puginier. Có vài lần, y họp với khá nhiều quan chức ngoài Bắc Kì (4). Ngoài ra, một con đàn bà nghe đâu là hậu duệ nhà Lê vẫn được bọn chúng nuôi dưỡng ở hành cung Hà Nội. Hẳn chúng muốn lập nữ hoàng để dễ thao túng, kìm kẹp (5). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn cố giữ sự điềm tĩnh vốn có để nói –. Những tin thám báo ấy, cái đã có từ trước khi Dực tông Anh tiên đế còn chưa khuất núi, cái mới đây. Tôi đã phối kiểm và thấy đều xác thực. Như vậy, quan tướng phụ chính nghĩ thế nào?
- Ăn cơm vua, trả nợ nước, tôi nào sá gì cái chết. Gia trang tôi hầu hết ở Thanh Hoá. Một số ý kiến gần đây cho rằng, nếu chúng bức bách ta quá, thì cứ đánh, quyết không hàng. Đầu hàng là một sỉ nhục lớn. Năm kia, thất thủ Thuận An, triều đình do hai tên chó chết Hồng Dật và Trần Tiễn Thành khuynh loát đã một lần đầu hàng, nhục nhã quá sức. Cái nhục ấy còn ập trên đầu tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhục. Bấy giờ, sĩ dân, quan lính chửi Tôn Thất Thuyết này như thế nào, tôi làm sao quên. Ban đầu chúng bảo tôi “nực cười châu chấu đá xe” với chút hi vọng “tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”, rồi lại bảo tôi chỉ là thứ “miệng hùm gan sứa”… – Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết nghiến răng, nói như rít –. Rất tiếc là lúc này ta chưa chuẩn bị thật chu đáo! Tôi quyết rửa hận! Còn bản dụ hôm cuối tháng tư nguyệt lịch vừa rồi, vua Hàm Nghi “chuẩn sai [thông] tư đi cho [các tỉnh] biết và xét việc Nguyễn Văn Giáp như quả có thực, thì xét trị tội, cho khỏi tiếng phao đồn” (2) , mặc dù nhà vua cũng như chúng ta đều đoán biết “[nguyên bố chánh sứ] Nguyễn Văn Giáp sau đó lánh trú chẳng biết ở đâu” (2) , chúng ta đã có mật dụ đính chính rồi. Các tỉnh đều phân biệt loại chỉ dụ đối phó, gọi là hư dụ, với loại chỉ dụ chính thức, gọi là thực dụ. Như quan quận công phụ chính nói, không đời nào ta chịu cho chúng cắt lìa ta với các quan kháng chiến. Tôi thành thật khâm phục sách lược hai mặt với hư chiêu và thực chiêu này (6).
- Đó là tôi vận dụng kế lưỡng toàn trong bối cảnh hiện nay của chúng ta. Phải có thật nhiều Trương Định như gần hai mươi năm trước (7). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói –.
- Vâng, đúng vậy. Nhưng lần này chúng ta không rơi vào sự đoạn tuyệt như Dực tông Anh tiên đế hồi đó đã đoạn tuyệt với nghĩa sĩ Nam Kì (7). – Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết gật đầu –. Vả lại, chính tiên đế Tự Đức, sau khi buộc phải đoạn tuyệt như thế, rồi cũng quay lại với kế lưỡng toàn (7) .
- Đoạn tuyệt với các quan kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp có nghĩa là chúng ta cũng tự sát, hết đường thoát! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười nhưng không khỏi nghĩ ngợi về bối cảnh bế tắc hiện thời –. Chúng ta đang ở thế cưỡi hổ. Chúng ta có đầu hàng thì bọn Pháp cũng giết chúng ta mà thôi. Làm sao tự cắt đứt với các quan kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp được!
Tôn Thất Thuyết quắc mắt nhìn xuống những đoá sen giữa màu xanh lá khoả đầy mặt nước. Ông nuốt nước bọt như nuốt vào lòng cả nỗi căm uất.
- Nhà Thanh đã đầu hàng bọn Pháp. Sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu”, thúc đẩy sự bùng nổ thế trận chiến tranh Trung – Pháp, nay đã hoàn toàn bị phá sản; ta chỉ còn được một cái là hệ thống sơn phòng, thượng đạo. Nhưng, tình hình này, ta không còn nguồn viện trợ nào về quân số là đã đành, khó thay là về vũ khí cũng thế. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường chậm rãi, từ tốn nói –. Liệu chúng tấn công kinh thành, ta có phản công nổi không, một khi chúng đã hầu như hoàn toàn rảnh tay ở Nam Kì, Bắc Kì nước ta và ở Phúc Châu, Đài Loan, Dương Tử giang bên Tàu? Theo kế hoạch, nếu thất thủ, tôi sẽ đưa vua và Tam Cung, hoàng thân ra Thanh Hoá, quan tướng phụ chính cầm cự ở Tân Sở, Vạn Xuân để cản hậu, các quan khác lo phòng thủ mặt biển, các tuyến sông Nghệ An, Hà Tĩnh, không cho chúng đổ bộ… Có điều, chỉ để cản đường cho đức vua và Tam Cung, hoàng thân thoát được bọn chúng mà thôi! Ta không qua Tàu, qua Xiêm được! Còn kháng chiến trên Trường Sơn, Việt Bắc? Thuốc đạn tích trữ trong các kho, ở các đồn, giỏi lắm chỉ còn đủ để kháng chiến một năm. Sau đó, lấy gì để tiếp tục kháng chiến? Triều đình rút lên rừng, thuế má vào tay bọn Pháp và bọn ngụy, thì ngân sách đâu để bí mật nhập lậu súng ống, đạn dược? Vả lại, mua số lượng ít còn lọt, chứ với số lượng nhiều, khó lọt lắm. Bọn Pháp tuần tiễu bằng tàu chiến của chúng khắp bờ biển, cửa sông, cho nên, thực trạng ấy cũng cần phải đặt thành vấn đề. Đây không phải là thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên – Mông, Lê Lợi chống quân Minh, chỉ bằng gươm đao cung nỏ tự chế tạo. Làm sao ta tự chế tạo súng, đạn tối tân? Nguyễn Xuân Phiếu đang mò mẫm chế được vài khẩu theo kiểu Hoa Kì, kiểu Đức… Ta chế tạo đang hoàn toàn thủ công, bọn Pháp chế tạo bằng cơ giới! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cảm thấy thật chua xót, ông nói tiếp –. Ta phải đặt hoàn cảnh nước ta vào bối cảnh chung các nước châu Á Tế Á (Asia), để trả lời những vấn nạn ấy. Từ đó, mới có thể đề ra quyết sách đối phó trước mắt và kháng chiến lâu dài. Chúng ta không thể vô trách nhiệm với tiền đồ nhà Nguyễn và vận mệnh nhân dân, Đất nước! Phải suy sâu nghĩ xa, ấy là trí. Đánh giặc, quét sạch bọn cướp nước, bán nước, để cứu nước, cứu dân là nhân. Quyết không đầu hàng giặc là khí tiết kẻ sĩ, là truyền thống anh hùng của dân tộc, ấy là dũng. Nhưng không thể manh động, liều lĩnh, để mang tiếng với muôn sau là bất trí… Tôi mong quan tướng phụ chính tự trả lời những vấn nạn ấy giúp tôi, để rồi đề ra quyết sách trong tình hình mới!
Quan đệ nhị phụ chính lặp lại những câu hỏi như tự hỏi chính mình:
- Bọn Pháp tấn công kinh thành, liệu ta có phản công đánh đuổi nổi chúng hay không? Nếu thắng, phải làm gì? Nếu bại, sẽ làm gì? Triều đình rút vào rừng với hệ thống sơn phòng, thượng đạo, liệu chúng có dựng nên nhà Lê với nữ hoàng, hay chúng sẽ dựng lên một tên vua như Dục Đức, như Hiệp Hoà, như Hồng Hưu hay còn tồi tệ hơn thế? Thuế má bọn Pháp và ngụy thu hết, thu với mức độ bóc lột tận xương tuỷ, dân còn gì để đóng góp? Vũ khí, thuốc đạn ở đâu để tiếp tục kháng chiến? Mặt biển, bọn Pháp không để lọt chiếc thuyền nào? Ta bị bao vây bốn phía, không sang Xiêm, sang Lào, sang Trung Hoa được? Trung Hoa còn mạnh hơn Xiêm, hơn Lào, nhưng cũng đã kí hiệp ước với Pháp là sẽ không giúp ta, vậy làm sao?
Ngẫm nghĩ một lúc, quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết lại chợt hỏi tiếp:
- Sao quan quận công phụ chính không đề cập đến bọn “tả đạo”? Chúng đã và đang là tai mắt khắp nơi của bọn Pháp!
- Tôi đặt những vấn nạn ấy là để tìm cách trả lời cho những gì còn chưa trả lời được… Vấn nạn “tả đạo”, câu trả lời đã có từ rất lâu, ngay cả quân Thanh vừa rồi cũng trả lời như thế (8). Nhưng thật rất đau lòng… Đó là “bình Tây” phải đi đôi với “sát tả”! Thật vô vàn đau xót, khi ta lại giết dân ta. Lương hay giáo đều là con đỏ của triều đình, nhưng chúng không chịu theo ta, phần lớn “dân giáo” chỉ ngoan cố theo cố đạo Pháp! Đã mấy chục năm trừng trị, thuyết phục, rồi lại khoan hồng, thuyết phục… Vậy mà mới năm kia, năm ngoái đây, tên linh mục Trần Lục vẫn sách động, xúi giục dân giáo Ninh Bình được! Quái tặc đến thế! May là ta chặn được ở Thừa Thiên và Thanh Hoá, không thì chiến tranh lương – giáo bùng nổ!
- Thế thì phải giết sạch, phá sạch! – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết rít lên –.
- Phá sạch nhà thờ Chúa của bọn Tây Âu ư? Giết sạch bọn giáo dân phản quốc ư? Làm sao giết hết được! Giết hết được thì đâu đến nỗi này! Bọn Pháp lại mượn cớ ấy để kích động giáo dân ở nước Pháp, ở các nước Âu Mĩ khác! Ta làm sao chống được cả Pháp lẫn Tây Ban Nha, Mỹ, Đức, kể cả bọn Anh theo Anh giáo, bọn Nga theo Chính thống giáo, bọn Mỹ và một bộ phận nhân dân các nước châu Âu theo Tin Lành giáo, thực chất đều thờ Nhi Nhu (Giê Su, Jésus) (9)! Tôi nghĩ, nếu cơ sự xảy ra, chỉ nên hạ lệnh giết ngay bọn cố đạo Tây, linh mục Việt và bọn trùm đạo, cho giáo dân như rắn không đầu, với bản án có cáo trạng, được tuyên xử hẳn hoi! Chúng không nói vào đâu được! Quan tướng phụ chính thấy tạm ổn chưa? Thật ra, tôi rất ngại phải gây sự với tất cả các nước Âu Mĩ. Nhân dân bạch chủng theo Thiên Chúa giáo ở Âu Mỹ vốn có thiên lương, họ cũng có lương tâm, lương tri, lương năng, nhưng trước sự tuyên truyền xuyên tạc, họ cũng ngu muội như dân hoàng chủng ta. Hễ cố đạo kích động là họ ủng hộ việc xâm lược của bọn thực dân chóp bu cầm quyền tại nước họ ngay. Cho nên chỉ tử hình bọn cố đạo Tây Âu làm gián điệp, cướp nước, bọn linh mục, bọn trùm xứ Việt bán nước đích thực thôi! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói nhỏ giọng lại –. Quan tướng phụ chính thừa biết, Dực tông Anh tiên đế đã bị dồn vào thế phải hạ mật dụ cho các quan tỉnh “làm ngầm” (10) khá nhiều bọn “tả tặc” ấy. “Làm ngầm”, tức là thủ tiêu, tử hình không có cáo trạng và cũng không ai biết do ai giết. Như thế, không ai có thể vin cớ “sát tả” để lật đổ triều Nguyễn ta, cướp nước ta!
- Chính tôi cũng đã thừa lệnh “làm ngầm” không ít tên “tả tặc”! Nay vẫn phải thế thôi! – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết nói –.
- “Cây muốn lặng, gió chẳng [chịu] ngừng” cho! Biết làm sao được! Nhưng phải đích xác là “tả tặc”! Không thể tử hình oan dân giáo lương thiện! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói như nghẹn ngào –. Tội nghiệp dân ta, một số ngu muội quá, mà lại cứ ngoan cố theo giặc Pháp! Ta chỉ tử hình có cáo trạng và “làm ngầm” những tên giặc, đúng là những tên cướp nước, bán nước đích thực! Lương tâm ta không cắn rứt ta, nhân dân ta không thể nguyền rủa ta! Ta đâu phải là kẻ khát máu, cuồng sát! Đó là đối với giáo dân thuộc loại “tả đạo”. Nhưng với dân lương mà phản quốc thì cũng phải tử hình như thế. Phản quốc, phải bị tử hình, ấy là điều tất nhiên. Công lí nhân loại chẳng lẽ không phải thế! Thần Công lí của Âu Mỹ chẳng lẽ đui mù, không thấy sự thật? Có điều, với dân lương, chúng ta không phải “làm ngầm” (thủ tiêu bí mật). Công lí bao đời nay đều yêu cầu phải được thực hiện một cách công khai, minh bạch. Pháp đình phải là nơi sáng tỏ hơn cả ánh sáng ban ngày. Đối với dân giáo theo “tả tặc”, bán nước, phản bội Tổ quốc, chúng ta bất đắc dĩ phải “làm ngầm”. Chúng ta bất đắc dĩ phải đau lòng “làm ngầm” như vậy, bởi nhân dân Âu Mĩ không hiểu sự thật, họ hoàn toàn bị bọn thực dân chóp bu và Toà thánh La Mã, cố đạo bưng bít, xuyên tạc. Chúng bưng bít, xuyên tạc để kích động họ, nhằm lôi cuốn họ ủng hộ chúng đi xâm lược các nước thuộc Á Tế Á (Asia), A Phi Lị Gia (Africa), Mỹ Lợi Kiên (America), Úc Đại Lợi (châu Đại Dương, Australia). Thần Công lí của Âu Mỹ chẳng lẽ đui mù, không thấy sự thật?
Nắng chiều đã tắt hẳn, hai quan phụ chính vẫn còn bàn luận hồi lâu. Hương sen cuối chiều ngào ngạt thơm hơn bao giờ hết.
Sau đó, mỗi vị lên kiệu của mình. Trước, sau và hai bên mỗi chiếc kiệu đều có dăm lính cận vệ theo hầu. Hai chiếc kiệu ra cửa Hiển Nhân, về khu vực Lục Bộ. Chiếc kiệu của phụ chính Nguyễn Văn Tường dừng lại trên sân thuộc khuôn viên Bộ Lại. Chiếc kia của phụ chính Tôn Thất Thuyết vẫn tiếp tục đi đến dinh cơ Bộ Binh.
Cả hai vị phụ chính đang suy nghĩ tìm cách đối phó thật hiệu quả, trước tình hình vừa gay go, vừa cấp bách. Có lẽ nào cứ để diễn ra tình trạng triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới! Giữa ta và Pháp, đã đến mức một sống, một chết!

2

Roussel de Courcy đã đến vịnh Hạ Long hôm mười tám tháng tư Ất dậu (31.05.1885). Y hiện được giữ chức đô thống, kiêm quản các đạo quân Pháp hiện đang đóng tại miền Nam lẫn tại miền Bắc, đồng thời là toàn quyền đại thần của chính phủ Pháp tại Đại Nam. De Courcy có quyền hạn rất lớn, cả về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao. “Khâm sứ đóng ở kinh [đô Huế] là Tham Bô [De Champeaux] cũng [phải] theo lệnh của đô thống [De Courcy] ấy” (11) . Qua tên tướng Brière de L’Isle, cố đạo Puginier và Nguyễn Hữu Độ cũng như Nguyễn Trọng Hợp, cả Phan Đình Bình, cùng nhiều tên quan chức khác do Nguyễn Hữu Độ đưa lên, De Courcy hiểu rõ tình hình ở Huế.
Chưa bao giờ Nguyễn Hữu Độ ton hót nhiều hơn, trong việc bẩm báo của riêng y! Nguyễn Hữu Độ còn biết De Courcy vốn là một tay bảo hoàng hạng nặng (12) nên với sự tức giận sẵn có, y đơm đặt, xuyên tạc, bôi nhọ hai quan phụ chính thật thậm tệ, thậm chí y còn giả bộ khóc thương hai tên vua thân Pháp, là Dục Đức, Hiệp Hoà như phường tuồng lành nghề nữa (13)! Dẫu vậy, De Courcy vẫn tin ở các cố đạo, nhất là Puginier, và vẫn tin tên tướng Brière de L’Isle hơn. Puginier ở Đại Nam này hàng chục năm, Brière de L’Isle cũng ba năm ở xứ này, hằng ngày phải đối phó với hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, đâu ít ỏi gì!
Giám mục gián điệp Puginier còn viết điều trần gửi các nhà chức trách Pháp (ở thời điểm năm năm sau, vào ngày 09.03.1890):
“Vào cuối tháng tư năm 1885 [khoảng giữa tháng ba Ất dậu], hai quan phụ chính Tường và Thuyết đã viết cho ngài đại diện Pháp ở Huế một bức thư mà nội dung chủ yếu là sự khước từ công khai việc thi hành điều ước [Patenôtre]. Bức thư này đã được gửi cho quan lại các tỉnh kèm theo một bức thư mà nội dung là kêu gọi tiến hành một cuộc kháng chiến chống Pháp. Một bản sao của bức thư này đã được một nhân vật thân Pháp trong chính quyền [hàng tỉnh của] Nam triều gửi cho tôi, và tôi đã nhanh chóng gửi nó cho ngài đô đốc De Courcy” (14) .
De Courcy cũng đã đọc bức thư Puginier gửi cho tên tướng Millot, ngày 08 tháng 08.1884 trước đây, về căn cứ kháng chiến (sơn phòng) tại Thanh Hoá:
“… Đó chẳng qua chỉ là sự thực thi kế hoạch đã được vạch ra trong bản điều trần của các quan chức Thanh Hoá mà tôi đã có vinh dự gửi cho ngài bản dịch. Tôi cũng biết rằng bản điều trần đó đã được triều đình Huế chuẩn y. Tôi biết chắc chắn rằng trong tỉnh Thanh Hoá người ta đang mộ quân sơn cước với số lượng rất đông và đang có những sự chuẩn bị đặc biệt. Các quan chức ở tỉnh này muốn che giấu kế hoạch kháng chiến, đã giả vờ cử quân đi đánh dẹp, nhưng thật ra họ đã bí mật thông cánh với nhau” (14) .
De Courcy cũng đã nghe câu Brière de L’Isle thường nói: “Muốn giải quyết việc Đông Dương [Đại Nam, Lào, Cao Mên (Campuchia)], chỉ có một cách là bắt hai viên phụ chính” (15) [:“Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái cách duy nhất để giải quyết hiện tình là phải bắt cóc hai người quan phụ chính”] (15) .
Đô thống, hay có kẻ còn gọi là thống soái ấy, cố nắm thật chắc tình hình theo kinh nghiệm cáo già của y. “Thống soái hiểu rằng nếu triều đình Huế còn đứng vững, nếu Nam triều còn có hi vọng thoát li những điều bắt buộc trong hiệp ước mồng sáu tháng sáu 1884, nếu nước Việt Nam còn có chí muốn khôi phục chủ quyền ở Đất nước mình, là nhờ ở hai người: Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường” (16) . De Courcy đã đi đến kết luận là sẽ thực hiện theo ý định bắt cóc hai quan phụ chính của tên tướng Brière de L’Isle: “Đoạn chót này là ở Huế” [:“Phải giải quyết cả vấn đề này tại Huế”] (17) !
Ngày mười bốn tháng năm Ất dậu (26.06.1885), De Courcy gửi một bức điện về Paris:
“[Tôi] sẽ mang một lữ đoàn lính Ả Rập vào Huế. Mồng một tháng bảy, tới Thuận An. Mồng ba tháng bảy, tôi vào bệ kiến vua Việt Nam” (18) .
“Tôi mang trong lòng những nỗi căm hờn đối với các vị phụ chánh. Tôi sẽ hành động thận trọng nhưng cương quyết. Đánh điện về Huế cho biết, nêu Bộ chống lại việc dùng võ lực” (19) .
Về việc De Courcy lên tàu vào Huế, chiếc tàu mang tên gã “anh hùng thực dân” Henry Rivière, có một tên sĩ quan Pháp viết thư gửi cho người thân ở Paris:
“Sáng 27.06 [1885], thống soái De Courcy cùng với đại tá Crétin và các quan hầu đã xuống Hải Phòng đáp tàu “Henry Rivière” đi Huế. Đi theo tàu này có tàu Brandon chở đoàn quân Ả rập số 3 và năm trăm [500] bộ binh. Lính Ả Rập sẽ đóng tại Huế. Chuyến này có lẽ thống soái sẽ đối phó một cách quyết liệt. Chậm còn hơn không. Rồi đây chẳng biết thống soái có bắt Tường và Thuyết không, hay chỉ bẻ gãy sức hoạt động của hai người? Người ta đồn rằng những vàng bạc, châu báu của nhà Nguyễn chuyển cả sang Lào. Biết đâu nay mai triều đình chẳng theo sang để giữ cái kho bảo vật ấy” (20) [:“Nếu một hôm nào đó, triều đình sẽ đi theo số của cải ấy, thì không có gì là lạ cả”] (20) .
Thật ra, số vàng bạc ấy đã được vị quan thanh liêm, thẳng tính nhất là Vũ Trọng Bình chở vào Dương Hoà (hay Dương Yên, thuộc Quảng Nam) và chở ra Tân Sở (thuộc Quảng Trị) (21)…
De Courcy khi mới đến Bắc Kì, y đã “tức thì gửi thư báo cho khâm sứ [De Champeaux] đóng ở kinh biết” (22). “Đến đây, [De Courcy] dắt đem binh thuyền số nhiều, từ Bắc Kì đến cửa biển Thuận An” (22) . Đúng như dự tính, De Courcy và quân lính đã tới Huế vào ngày 02.07.1885 (hai mươi, tháng năm, năm Ất dậu), sau ngày Tết Đoan ngọ đúng mười lăm ngày. “[Nhà vua] sai hộ tiếp đô thống ấy đến Sứ quán” (22) .

3

Sau Tết Đoan ngọ, mùng năm tháng năm nguyệt lịch (17.06.1885), trong cuộc họp ở Viện Cơ mật – Thương bạc với sự có mặt của ba đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, vấn đề Pháp bắt buộc triều đình và nhân dân ta phải thực thi những điều khoản của “hoà” ước thực chất là cưỡng ước Giáp thân 1884 đã được bàn luận lại. Trong tình hình sau khi “hiệp” ước Thiên Tân Pháp – Trung 1885 mới vừa ráo mực, De Champeaux lại bắt ép triều đình quá đáng. Quả thật, không thể nào chấp nhận như vậy. Ba đại thần đều nhất trí tâu lên vua Hàm Nghi trong một buổi thiết triều. Hôm ấy, như thường lệ, có hai phụ chính thân thần Lạc quốc công Miên Lâm, Thịnh quốc công Miên Tuấn cùng đình thần.
Đại diện Viện – Bạc, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường tâu:
- “Hiện nay nước ta với nước Pháp, công việc giao thiệp, [thấy] nên phải bàn bạc nhiều. [Viện – Bạc] chúng tôi nghĩ làm quốc thư cho sứ [thần] đi sang kinh đô [Paris] nước đó, thăm hỏi Giám quốc [:tổng thống Pháp]. Nhân tiện đem các việc làm của phái viên [Pháp] nhiều lần không đúng [như ở kinh thành Huế, các nha hải phòng Đà Nẵng, Bình Định…] và các điều khoản trong tờ “hoà” ước [Giáp thân 1884] không thể chịu được. Xin phải [đề nghị Pháp cùng ta] bàn định châm chước lại cho [phải]. Nhưng chưa biết nước [Pháp] ấy có thuận nghe hay không. Xin [nhà vua có ý kiến để] sửa lại bức thư, nhờ quan khâm sứ gửi về giám quốc [Pháp], [xem] ý nghĩ [họ] thế nào. [Họ] phúc [đáp] đến, [Viện – Bạc] sẽ làm [:tiến hành việc cử sứ bộ] và sẽ nghĩ thư đệ trình” (23) .
Bức quốc thư ấy vẫn kiên định đấu tranh trong hoà dịu. Trước mặt nhà vua, các phụ chính thân thần, phụ chính đại thần, các quan chính khanh, á khanh, một vị quan của Nha Thương bạc dùng quả ấn truyền quốc “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh” để đóng chỗ giáp lai các tờ của bức quốc thư, đóng vào chỗ giáp ngoài bao bì, tất thảy sáu lần đóng dấu (23).
Vua Hàm Nghi “chuẩn cho theo lời tâu, thi hành” (23) .
Sau đó, bắt đầu từ ngày rằm tháng năm nguyệt lịch là dịp thi điện, khảo hạch lại các sĩ tử thi hội kì tháng tư vừa rồi đã đạt hạng trúng cách hoặc thứ trúng cách (24). Quan võ Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiển làm giám thí. Thượng thư Phạm Thận Duật (người Ninh Bình) và các quan văn Hoàng Hữu Thường (người Thừa Thiên), Vũ Tử Văn (người Quảng Trị), Đỗ Huy Liệu (người Nam Định) những hôm này phải làm giám khảo. Họ đang rất bận. Và kết quả kì thi điện này dự định sẽ truyền lô, phát bảng vào cuối tháng năm hoặc đầu tháng sáu tới (24).
Trong kì thi đình này, có một chàng trai xuất sắc mới mười bảy tuổi: Nguyễn Thượng Hiền (25). Người thanh niên ấy là con trai của quan biện lí Bộ Hộ Nguyễn Thượng Phiên, một nhà ngoại giao từng lưu trú để làm công tác ở Quảng Đông và từng đi vận động các nước châu Á ủng hộ Đại Nam chống Pháp mấy năm trước. Nguyễn Thượng Hiền thừa hiểu tình hình chưa bao giờ gay gắt, căng thẳng đến thế!
Đề đốc Bình Định mới, được sắp xếp bổ sung nhân lực cho tổng đốc Bình – Phú Lê Thận, vừa có lệnh điều bổ vào (26). Cách đây chưa bao lâu, Bình Định là nơi bọn Pháp ức hiếp quan ta, đóng đinh bịt lỗ châu mai gần bảy chục khẩu đại bác tại Nha Hải phòng! Nha Dinh điền Quảng Trị cũng vừa được chuẩn y lời tâu để thành lập, hỗ trợ cho Tân Sở và Sơn phòng Cam Lộ (27).
Dẫu tình hình đã rất căng thẳng, không khí chuẩn bị chiến tranh đã bao trùm khắp kinh đô Huế, nhưng đồng thời với việc sắp đặt thế trận, bố trí lực lượng quân binh và dự bị hậu lộ, thì các công việc bình thường vẫn phải tiến hành, tiến hành trong tình trạng khẩn trương…
Tình hình căng thẳng hầu như đã đến cực điểm!
Đúng như dự định của De Courcy, y và tàu chiến cùng quân lính đã tới Huế vào ngày 02.07.1885 (hai mươi, tháng năm, năm Ất dậu) (28)! De Courcy đi trình quốc thư của tổng thống Pháp mà hung hăng, dữ dằn, hùng hổ thế ư! Tuy vậy, theo phép lịch sự ngoại giao, hôm qua, khi Roussel de Courcy và tiểu đoàn trưởng Metzinger dẫn quân lính đến cửa biển Thuận An, triều đình đã cử hai vị quan Bộ Lễ cùng đi với khâm sứ De Champeaux về đến đó để đón tiếp. Tại Huế, sau khi cử nhạc tiếp tân, bên phía Pháp, hai mươi mốt tiếng súng đại bác nổ rền trời, bên phía ta, mười chín phát thần công cũng vang trời nổ, theo đúng nghi thức đón chào (28).

4

Khoảng vào giờ tị (10 – 11 giờ sáng), ngày hai mươi mốt nguyệt lịch, quan phụ chính Tôn Thất Thuyết cho dừng kiệu tại sân dinh thự Bộ Lại. Theo như thiệp báo đã được quân hầu cận thuộc Bộ Binh đệ trao trước đó, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng đang chờ ông. Sau khi thi lễ chào nhau, hai người bắt đầu đi vào câu chuyện.
Nét mặt hai quan phụ chính không thể không biểu lộ sự căng thẳng. Họ nhận định tình hình không đơn giản chút nào. Họ lại được nhận một trọng trách phải quyết đoán mọi việc, vì dẫu sao, vua Hàm Nghi mới mười lăm tuổi, còn phụ chính thân thần, đình thần và cả Tam Cung đều để họ định đoạt tất cả.
Quan tướng phụ chính nói:
- Tôi vừa nhận được tin mật, rằng bọn De Courcy, De Champeaux đang bày mưu bắt cóc tôi (29). Chúng chỉ nhắm đến một mình tôi thôi, bởi binh quyền ở trong tay Tôn Thất Thuyết này. Quan quận công phụ chính đã hay tin chưa?
- Ai đã báo lại cho quan tướng phụ chính tin đó? Tôi cũng mới vừa được báo cách đây một lúc không lâu.
- Chúng mới họp ở bên Sứ quán xong. Tin ấy là do một người nấu ăn ở Sứ quán tiết lộ (29).
- Phải phối kiểm lại tin thám báo ấy. Chắc gì tên đầu bếp lại báo một cách xác thực cho lính thám báo của ta? Nhưng dẫu sao, so với tin thám báo từ Hà Nội gửi vào, tin này chỉ đúng một nửa. Khi còn ở Hà Nội, tên De Courcy, Brière de L’Isle, Puginier, Nguyễn Hữu Độ đều đồng ý với nhau là sẽ bắt cả hai chúng ta. Lúc này, y chỉ muốn bắt mỗi một mình quan tướng phụ chính. Tại sao như vậy?
- Do tên khâm sứ De Champeaux, giám mục Caspar bàn lại chăng? Có thể như thế!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường ngẫm nghĩ. Một lúc, ông nói:
- Bọn này thật táo gan! Nhưng quan tướng không nghĩ rằng mưu kế của bọn chúng là, chính chúng nó chủ động bắn tin cho ta sao? Nói cách khác, chúng chỉ giả vờ bị rò rỉ tin tối mật ấy. Đó là một cái mưu rất vặt nhưng rất nguy hiểm. Người xưa gọi là kế li gián và ngầm ý khích tướng. Chúng muốn li gián giữa tôi với quan tướng.– Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường ngừng lại, rồi nói tiếp –. Trước đây chúng định chỉ bắt hai chúng ta, khiến cả triều đình, hoàng tộc dao động. Đa số triều thần, hoàng thân vốn chủ “hoà”, họ bỗng yên tâm khi hay tin chỉ hai chúng ta là mục tiêu phải bắt giữ hoặc tiêu diệt mà thôi. Lúc này, chúng bắn tin ra như thế, để tranh thủ tôi và cô lập quan tướng. Quan tướng phụ chính không nghĩ thế sao?
Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết hơi giật mình. Ông nói:
- Có lẽ như thế thật!
- Chắc quan tướng phụ chính còn nhớ kế li gián do Nguyễn Huệ sử dụng, khi quân Tây Sơn đánh chiếm thành Phú Xuân cách đây khoảng một trăm năm?
- Quan quận phụ chính có thể kể cho tôi thật ngắn gọn không? – Phụ chính Tôn thất Thuyết sốt ruột đề nghị –.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường thấy thì giờ đang cấp bách, nhưng không thể không kể. Ông hơi phân vân, rồi quyết định chỉ kể vài nét chính:
- Bấy giờ, thành Phú Xuân ở xứ Thuận Hoá này, quân Trịnh (Đàng Ngoài) đã chiếm đóng từ lâu trước đó. Chính hai viên tướng Lê – Trịnh là Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể đã mắc mưu, trúng kế li gián của Nguyễn Huệ (30)… Chuyện kể như thế này: “Phạm Ngô Cầu lại nhút nhát, hay ngờ vực, không hợp với phó tướng Hoàng Đình Thể. [Nguyễn] Nhạc và [Nguyễn] Huệ nhòm ngó [thành Phú Xuân] đã lâu, đến đây biết là có thể lấy được. Trước hết, [Nguyễn Huệ] sai thuật sĩ đem việc hoạ phúc làm cho [Phạm Ngô] Cầu mê hoặc. [Phạm Ngô Cầu] sai tướng sĩ đặt đàn chay lớn, ngày đêm không nghỉ. Quân bộ của [Nguyễn] Huệ qua núi Hải Vân, thủ tướng của họ Trịnh [Đàng Ngoài] là Hoàng Nghĩa Quyền đánh nhau [với quân Tây Sơn], bị chết. Quân thuỷ của [Nguyễn] Huệ từ cửa biển vào. Hai đường đều tiến lại. Cầu nghe tin báo, vội vàng từ đàn [chay tế] chạy về, mưu đem quân để chống. Nhưng quân lính [vì tế đàn dài ngày, thức suốt nhiều đêm,] mỏi mệt đã lâu, đều không có lòng chiến đấu. [Nguyễn] Huệ mật sai [Nguyễn] Hữu Chỉnh đem thư bóc nến [:sáp nến], [mật] ước với [Hoàng] Đình Thể, [rằng Thể] làm nội ứng [cho quân Tây Sơn], mà giả cách đưa lầm đến cho Cầu. Cầu cho Thể với Chỉnh cùng là môn hạ của [Hoàng] Ngũ Phúc [tướng của họ Trịnh], [nay Chỉnh đã theo hàng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng hẳn giữa Thể với Chỉnh vẫn còn tình cố cựu, đồng môn thuộc, biết đâu đã móc nối với nhau để cùng quy hàng quân Tây Sơn]. [Như thế, Cầu nghĩ], tất không lợi cho mình. Trong lòng [Phạm Ngô Cầu] ngờ vực, sợ hãi, riêng tính kế đón hàng [quân Tây Sơn] để mong được khỏi chết” .– Phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười, chua chát –. “Rồi thì quân Huệ chợt đến, quân thuỷ, quân bộ đánh giáp lại. Cầu sai Thể ra khỏi thành đón đánh. Thành gần bờ sông. Quân ở thuyền của [Nguyễn] Huệ ngửa trông lên chân thành, [thấy thành] cao hơn hai trượng, không thể ngửa lên bắn được. Thể bắn súng lớn chìm một chiếc thuyền. Quân [Nguyễn] Huệ hơi lùi. Chợt khi nước sông lên mạnh, thuyền sát đến thành, [quân Nguyễn Huệ] chiếu vào thành mà bắn. Rồi [Nguyễn Huệ] cho quân bộ vây các cửa thành. Thể cùng hai con [trai] hết sức đánh, chém giết được vài trăm người. Thuốc đạn đều hết, [Thể] sai người xin ở Cầu. Cầu không cho. Thể cả giận, muốn vào thành giết Cầu trước rồi sau mới ra đánh, thì đã thấy trên thành [chính Phạm Ngô Cầu đã cho lính] dựng cờ trắng [đầu hàng quân Tây Sơn] rồi. Thể lại vây quân, đem dao ngắn đánh tiếp, giết được vài mươi người. [Cuối cùng] hai con [trai Thể] đều chết trận. Thể sức kém, cũng tự đâm cổ, chết trên bành voi. [Nguyễn] Huệ đem quân vào thành [Phú Xuân], giết rất dữ. Quân miền Bắc [của họ Trịnh] ở trong thành vài vạn người đều [bị] giết hết cả. Người nào chạy ra ngoài thành, thì dân [Thuận Hoá] tranh nhau giết chết. Đốc thị là Nguyễn Trọng Đương cũng chết trong đám loạn quân. [Phạm Ngô] Cầu [tự] trói tay về sau lưng, xin hàng [Nguyễn Huệ]. [Nguyễn Huệ] đem [Phạm Ngô Cầu] về Quy Nhơn, giết đi” (30) .– Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường kể thật ngắn gọn vì thời giờ đang rất khẩn cấp, và ông nói tiếp –. Kế li gián thâm độc thế đó. Chúng ta ở ngay trên đất Phú Xuân của xứ Thuận Hoá này, lại có bài học lịch sử về kế li gián cách đây khoảng một trăm năm như thế! Quan tướng phụ chính và chính tôi đây đều phải cảnh giác mưu kế li gián của bọn De Courcy, De Champeaux và của cố đạo Caspar!
Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết ngẫm nghĩ. Ông thấy rõ ràng là bọn De Courcy đang bày mưu khích tướng và li gián. Lúc này, chúng giả vờ tranh thủ quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, muốn ông bị cô lập, và đang bức bách kinh thành. Ông thật sự căm giận, nhưng cố gắng nói vừa đủ hai người nghe:
- Chúng muốn ép tôi đến cùng, buộc tôi vào thế bí. Nhưng, tôi cũng không chịu đầu hàng chúng, không bao giờ đầu hàng chúng cả! Đến đâu thì đến. Bên cạnh tôi, ngày đêm luôn có quân Phấn Nghĩa túc trực để bảo vệ. Tôi không sợ. Nếu chúng làm tàng, phách lối, tôi sẽ cho chúng biết tay.
- Quan tướng phụ chính định tấn công chúng trước?
- “Tiên hạ thủ vi thượng sách” , tấn công trước là tốt nhất!
- Như thế sẽ rơi vào mưu kế khích tướng của chúng. Chúng chỉ mong có thế, để phản công, và cuối cùng là chiếm đóng cả kinh thành, hoàng cung. Như thế là không ai có thể trách cứ chúng vi phạm hiệp ước cả, bởi chúng sẽ đổ lỗi ta tấn công chúng trước! Dân ta và dư luận các nước không có lí do nào để căm phẫn, hoặc nếu có căm phẫn chăng thì cũng đã bớt cường độ nhiều rồi. Bọn De Courcy vừa đánh chiếm được kinh thành vừa không mất lòng dân hay ít mất lòng dân, còn dư luận các nước không nói vào đâu được. Trái lại, nếu cứ để chúng tấn công ta trước, ta mới có cớ để trách chúng vi phạm hiệp ước. Chỉ cần để chúng bắn trước vài phát, ta liền cho lính hô hoán lên, sau đó ta phản công mãnh liệt thì tốt hơn.
- Cái đó cũng dễ thôi. Nếu tối mai chúng tiệc tùng với nhau như tên đầu bếp nói, tôi sẽ cho thực hiện ở cống Thanh Long, buộc chúng phải nổ súng trước.
- Như thế là đỡ phải mắc mưu bọn Pháp. Rất hay. Nhưng đó là chúng ta lo xa, nghĩ sâu vậy thôi, chứ ai cũng biết, cho dù ta tấn công trước hay chúng tấn công trước thì cũng đều do chúng bức bách ta mà ra. Nhưng cẩn trọng trước dư luận vẫn hơn. Đó là bàn cho tận cùng kì lí. Và một điều nữa, tôi muốn quan tướng phụ chính trả lời những câu hỏi mươi hôm trước tôi và quan tướng đã nêu ra.
Quan tướng đã suy nghĩ rất kĩ về những vấn nạn đó. Từ hôm hai vị phụ chính bàn luận bên hồ Thái Dịch ngát hương sen ấy đến nay, ông đã không ngớt thao thức trước những câu hỏi: Bọn Pháp tấn công kinh thành, liệu ta có phản công đánh đuổi nổi chúng hay không? Nếu thắng, phải làm gì? Nếu bại, sẽ làm gì? Triều đình rút vào rừng với hệ thống sơn phòng, thượng đạo, liệu chúng có dựng lại nhà Lê với nữ hoàng, hay chúng sẽ dựng lên một tên vua như Dục Đức, như Hiệp Hoà, như Hồng Hưu hay còn tồi tệ hơn thế? Thuế má bọn Pháp và ngụy thu hết, thu với mức thuế bóc lột tận xương tuỷ, dân còn gì để đóng góp? Vũ khí, thuốc đạn ở đâu để tiếp tục kháng chiến? Mặt biển, bọn Pháp không để lọt chiếc thuyền nào? Ta bị bao vây bốn phía, không sang Xiêm, sang Lào, sang Trung Hoa được? Trung Hoa còn mạnh hơn Xiêm, hơn Lào, nhưng cũng đã kí hiệp ước với Pháp là sẽ không giúp ta, vậy làm sao?
Quan tướng Tôn Thất Thuyết bỗng quyết tâm hơn bao giờ hết. Ông liền nói:
- Xưa nay chưa có ai khen người đầu hàng. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” ! Có lẽ cơ đồ triều Nguyễn đến đây là hết. Tôi với quan quận công phụ chính cũng đã gắng gỏi đến cùng. Không còn cách nào nữa. Ta chỉ biết làm trọn trách nhiệm ta mà thôi. Đó là phải chiến đấu đến cùng để giữ danh dự cho triều Nguyễn, như quan quận công thường nói. “Chớ đem thành bại luận anh hùng” ! Xưa nay có ai chê trách An Dương vương khi mất thành mà tự sát đâu, mặc dù ông vua ấy chủ quan, mắc mưu gián điệp là rất đáng trách. Ông ta không bị chê trách ở chỗ ông ta không đầu hàng và biết tự sát để giữ khí tiết. Ai trách Hai Bà Trưng mất thành, nhảy xuống sông Hát tử tiết đâu. Ai trách Mai Hắc đế không đầu hàng đâu, mà còn khen ngợi nữa. Ai trách vua Trần Trùng Quang và Đặng Dung đâu, cho dù họ bại trận, bị giặc bắt, phải nhảy xuống biển tự vẫn. Quan quận công phụ chính thường hay nói chuyện kinh sử nước ta với tôi mà!
- Không sai chút nào hết. Không ai khen ngợi kẻ đầu hàng trước giặc ngoại xâm hay trước giặc nội loạn phi nghĩa. Rõ ràng triều Nguyễn ta là chính nghĩa, bọn Pháp và “tả đạo” là phi nghĩa. Ta đầu hàng bọn Pháp và “tả đạo”, tất nhiên hậu thế muôn đời sẽ nguyền rủa ta. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói rõ hơn, và nói tiếp –. “Thà chết vinh hơn sống nhục” trong trường hợp triều Nguyễn ta là sao đây? Ấy là phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tròn sứ mệnh của một triều đại lãnh đạo cả dân tộc, và cho dẫu triều Nguyễn ta sụp đổ thì triều Nguyễn ta vẫn vinh quang đến muôn đời. Như thế, tất nhiên còn hơn là cả vua lẫn quan triều Nguyễn ta chịu làm tôi tớ cho bọn Pháp và “tả đạo” dưới chiêu bài mị dân của chúng, để muôn đời hậu thế nguyền rủa. Chúng ta sôi kinh nấu sử một đời cũng chỉ học có mỗi một bài học đó thôi. Không ai không biết. Ngay cả người thường dân lê thứ, cũng hiểu truyền thống đó, nữa là kẻ sĩ, quan chức chúng ta. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười, bỗng rất đỗi điềm tĩnh –. Tuy nhiên, vẫn còn một kế sách cuối cùng, tôi sẽ bàn với quan tướng phụ chính. Thật ra, hôm trước tôi đã nói đến kế sách của đức Dực tông Anh tiên đế, ấy là kế lưỡng toàn và quyết không đoạn tuyệt với phong trào nghĩa sĩ (nhưng rất tiếc là đức Dực tông Anh tiên đế đã trót lỡ mà đoạn tuyệt!) (7). Phục vụ cho kế sách lưỡng toàn và không bao giờ đoạn tuyệt với phong trào nghĩa sĩ ấy là “hư chiêu” “thực chiêu” (nói theo danh từ võ thuật). “Hư chiêu” “thực chiêu” có nghĩa là sắc dụ giả vờ, nhưng công khai và sắc dụ chính thức, lại bí mật (14). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường chậm rãi và khe khẽ nói kề bên tai quan tướng Tôn Thất Thuyết –. Nếu giả định kinh thành sau khi quật khởi mà bị thất thủ, một nửa sẽ lên sơn phòng, thượng đạo tiếp tục kháng chiến, còn một nửa ở lại cứ giả vờ chấp nhận chịu “bảo hộ”. Tức là “nửa bí mật, nửa công khai” . Nhà vua sẽ lãnh đạo bằng mật dụ. Tất cả các quan phải thi hành theo sắc dụ bí mật (mật dụ). Còn sắc dụ giả vờ, công khai (hư dụ) chỉ là hình thức đối phó với bọn Pháp, “tả đạo”. Có như vậy, các quan binh kháng chiến mới có thể có vũ khí, đạn dược, quân trang, lương thực được tiếp viện từ triều đình một cách bí mật. Nếu không thì đào đâu ra? Nước nào viện trợ?… Tóm lại, cụ thể là đêm nay hoặc đêm mai, tôi hoặc quan tướng, sẽ có một người chỉ huy tấn công bọn Pháp ở Mang Cá và ở Sứ quán, còn một người giả vờ không biết gì cả để có thể ở lại, củng cố lại triều đình và hệ thống quan các tỉnh, phủ, huyện. Như thế là lưỡng toàn. Quốc kế này chỉ tôi và quan tướng biết mà thôi, không tiết lộ cho ai biết nữa. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường lại nói –. Nếu thắng trận này, ta cứ phải đổ lỗi cho De Courcy bức bách ta (sự thật đúng như vậy!) hoặc đổ lỗi chúng nổ súng bắn ta trước. Bởi thắng trận đánh danh dự, trận đánh quốc thể này, còn nhiều trận sau nữa, chứ đã hết đâu, ta đâu đã hoàn toàn thắng lợi, đuổi sạch bọn Pháp và các tên cố đạo gián điệp đâu! Ta còn phải có cớ để đấu tranh trước công luận, cho dù công luận hiện nay của các nước thực dân là công luận hàm hồ, già mồm và ỷ mạnh.
Hai vị phụ chánh bàn bạc rất cụ thể, vạch ra từng phương án một, trong đó có phương án rất quan trọng là ban bố “Dụ Cần vương” tại Tân Sở (31). Cả hai vị đều hiểu rằng: “người đi” (32) cho dù gian khổ ở rừng thiêng nước độc, thậm chí phải làm người thượng, thì vẫn hiên ngang và tự do, tự chủ, còn “kẻ ở” (32) có thể sẽ bị De Courcy bắn chết ngay sau khi kinh đô, hoàng thành bị bọn Pháp chiếm được. Đó là chưa nói về danh dự, khí tiết!
Ai là “kẻ ở”? Ai là “người đi”? Hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trầm ngâm nghĩ ngợi.
Gần đúng ngọ (11 – 13 giờ trưa), nắng chói rực bên ngoài vuông sân rộng của dinh cơ Bộ Lại. Tình thế và thời giờ cấp bách lắm rồi. Phải nhờ quan lão thành nổi tiếng thanh liêm, trực tính Vũ Trọng Bình cắt cử người đưa ra Tân Sở thêm những bảo vật và xem xét cẩn trọng việc bảo quản các bảo vật đó. Phải kiểm tra, đôn đốc lại quân binh phòng thủ. Trận địa sẽ là kinh thành, hoàng thành này! Không thể muộn hơn được nữa! Trận đánh vì quốc thể và vì danh dự triều Nguyễn!
Trong tất cả vua quan, triều thần, hoàng thân, và đặc biệt là hai quan phụ chính, ai mất, ai còn trong những giờ khắc sắp điểm?

5

Hôm sau, ngày hai mươi mốt tháng năm Ất dậu (03.07.1885), Viện Cơ mật quyết định sang Sứ quán theo như giấy mời của De Courcy để bàn về thể thức triều yết và trình quốc thư của chính phủ Pháp (33) do tên thực dân Brisson làm thủ tướng. Không thể không đi, nhưng thật sự quan phụ chính Nguyễn Văn Tường rất ngại thủ đoạn của tên đô thống De Courcy. Nhỡ y bắt ông và các quan khác vào Gia Định như đã từng bắt tổng đốc Hà Văn Quan và một số quan khác ở Bắc Kì thì làm sao! Thế thì thật mất mặt, rất nhục nhã. Chính quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng không chịu đi (33)!
Tối hôm qua, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường đã suy nghĩ nhiều để tìm cách ứng xử trong trường hợp này. Sáng nay, ông vẫn điềm tĩnh đến Viện Cơ mật – Thương bạc. Tại đó, hiện diện gần như đủ mặt các quan từ đại thần đến tham biện, tư vụ, tất nhiên không thể thiếu quan tướng Tôn Thất Thuyết.
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường bảo:
- Thế này, bây giờ đi tất cả, nhỡ tên De Courcy làm ẩu, thì lấy ai bảo vệ kinh thành, đức vua và Tam Cung cùng đình thần, hoàng thân. Cho nên, tôi đồng ý là chỉ tôi và đại thần Phạm Thận Duật cùng năm vị nữa, gồm hai phụ chính thân thần Miên Tuấn, Miên Lâm và ba tham biện, tư vụ của Viện. Nhưng phái đoàn ta đi, không theo nghi thức vốn có với cờ lọng kèn trống, mà đi có nhiều lính hộ tống với vũ trang. Ta đi tắt, khá lặng lẽ, đừng để nhân dân chú ý nhiều, gây kinh động. Chúng ta có lính hộ tống vào tận cửa phòng họp, nếu bọn Pháp làm ẩu, ta lệnh cho lính hộ tống chận cửa phòng họp lại. Ngoài số lính hộ tống, còn có một đội mai phục sẵn ở gần Sứ quán để yểm trợ, một cơ khác mai phục trên sông để chặn tàu thuyền của chúng. Bên này sông, số quân mai phục sẵn sẽ vượt nhanh qua sông, phối hợp ứng cứu.
- Tôi xin cắt cử đủ quân như quan quận công phụ chính bàn. – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết hết sức vui mừng tán thành –.
Phái đoàn lặng lẽ đi tắt sang sông, không có nghi thức long trọng như mọi lần.
Đến Sứ quán, phái đoàn được mời vào phòng họp. Quân cận vệ khá đông cũng vào theo và đứng chặn trước cửa. De Courcy, De Champeaux hơi bất ngờ nhưng chúng hiểu ra ngay. Chúng biết mưu kế bắt cóc của chúng đã đến tai hai quan phụ chính. Thật ra, đó cũng là lời tuyên chiến của chúng mà thôi, nhằm mục đích khích tướng để quan Bộ Binh Tôn Thất Thuyết nổ súng trước. Chúng thấy đánh chiếm kinh thành thì công to và thu lợi nhiều hơn là chỉ bắt cóc hai phụ chính. Trước sau gì, hai phụ chính vẫn bị chúng bắt, thoát đi đâu được, nhất là sau khi kinh thành thất thủ! De Courcy rất tự tin vào lữ đoàn lính Ả Rập cùng số quân ở cửa Thuận, ở Sứ quán, và y rất khinh thường quân binh của ta! De Courcy là một tay cực kì tham công, hám của. Y quyết phải đánh bại kinh thành, chiếm hẳn hoàng cung. Danh tiếng y sẽ lừng lẫy khắp nước Đại Nam, khắp nước Pháp cũng như ở nhiều nước khác nhờ chiến công này. Và chiếm được hoàng cung, dẫu sao ở đấy cũng còn khối của quý, bảo vật lẫn vàng bạc. Y sẽ giàu to, ngoài số chiến lợi phẩm phải chở về cho chính phủ Pháp. Như thế, ngon ăn hơn là chỉ âm thầm bắt cóc hai phụ chính. Vào đến Huế, quan sát địa hình, cách bố phòng kĩ lưỡng nhưng thiếu hiện đại ở kinh thành, y liền thay đổi ý định là không chỉ bắt cóc hai phụ chính một cách giản dị! Đời làm tướng, mấy ai có dịp may đánh chiếm kinh đô một nước! Đây sẽ là chiến công làm nên sự nghiệp lớn! Thật uổng và thật ngu nếu bỏ lỡ dịp may hiếm có này!
Vì suy nghĩ như thế, nên y quyết định chỉ khiêu khích là chính, chứ chẳng bàn thảo gì!
- Các quan làm gì mà đề phòng quá thế? – De Courcy hỏi, nhếch bộ râu mép đỏ quạch và cười –.
- Quan đô thống có thể tự trả lời! Nhân dân Huế và chúng tôi cũng không hiểu tại sao phái đoàn Pháp trình quốc thư lần này mà lại lắm quân binh, súng đạn, tàu chiến đến thế? – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường hỏi ngược lại –. Tục ngữ Đại Nam có câu “bánh ít trao đi, bánh chì trao lại”. Bản chức vẫn ước ao rằng sự giao hảo giữa hai nước không cần tới quân đội, tàu chiến, đại bác và lưỡi lê! Đấy là câu trả lời!
- Danh tiếng của ngài đệ nhất phụ chính quả là không sai lệch với sự thật. Ngài trách chúng tôi khá đau đấy! Nhưng thôi, bây giờ cho tôi hỏi: Ai đây là quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết?
Đại thần Phạm Thận Duật thấy quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nhường lời, nên vội đáp:
- Quan đệ nhị phụ chính bị ốm, không thể có mặt hôm nay.
De Courcy cười nhạt, và bỗng cau có:
- Bệnh cũng phải võng sang! Tôi những muốn cho lính qua võng Tôn Thất Thuyết sang đây kia (34)! – De Courcy bỗng thấy mình bất nhã quá đáng, ngay cả những tên Pháp bên cạnh y cũng giật mình, nên y vội nói chữa –. Ở đây có bác sĩ Mangin. Hay tôi sẽ cho Mangin sang chữa cho đức ông Tôn Thất Thuyết (34)?
Đại thần Phạm Thận Duật nói:
- Quan đệ nhị phụ chính nhiều lần từ chối thuốc Tây và bác sĩ Tây y! Xin cảm ơn. Để khi phái đoàn về triều, tôi sẽ hỏi lại quan lớn Tôn Thất Thuyết.
- Thế thì xin thôi. Bây giờ tôi xin phái đoàn Đại Nam bàn định cho nghi thức để tôi trình quốc thư trong ngày mai. – De Courcy chuyển vấn đề –.
Các quan tham biện trình bày rõ nghi thức:
1. Đi cửa giữa Ngọ môn, chỉ có quan đô thống;
2. Quân lính và các quan khác đi vào theo hai cửa hai bên, không được mang vũ khí (34);
3. Quan đô thống khi vào trình quốc thư ở Điện Thái hoà, phải đứng lại tại hàng cột thứ nhì, bên phải. Ở đấy, sẽ có một quan đại thần nhận quốc thư của chính phủ Nước Cộng hoà Pháp. Sau đó chính đại thần ấy sẽ đặt trên ngự án trước ngai vàng.
De Courcy tỏ vẻ không bằng lòng:
- Sứ Trung Hoa ngày trước sao, sứ Pháp bây giờ vậy. Không thể coi thường tôi như thế (34)!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười nhã nhặn:
- Quan đô thống ứng xử như sứ thần Trung Hoa đối với chúng tôi thì đâu có mấy chục năm chiến tranh như vừa rồi. Mấy trăm năm qua ở kinh đô Huế làm gì có khâm sứ nhà Thanh thường trực! Nhà Thanh nào “bảo hộ” được Đại Nam! Nhưng thôi, vấn đề này nói mãi cũng nhàm. Về nghi thức trình quốc thư, bản triều nhân nhượng, nể nang lắm mới thế. Mong quan đô thống và phái đoàn Pháp đừng quá câu nệ!
Vốn muốn khiêu khích để gây chiến, với mục đích lập công to, cướp của nhiều, De Courcy vẫn ngang ngược yêu sách này nọ một cách vô lí. Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường hiểu rõ tim đen của y ngay tức khắc. Ông đã cố nhẫn nhịn, nhưng thấy De Courcy cứ cố tình xúc phạm; vả lại, không thể không đi nước cờ chót, nên ông tỏ ý cho các quan mang lễ vật ngoại giao của chính Từ Dũ thái hoàng thái hậu trao tặng cho De Courcy (35). De Courcy thừa biết Từ Dũ thái hoàng thái hậu là bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam này, nhưng y vẫn phách lối từ chối! De Courcy chỉ mơ ước đánh chiếm kinh thành Huế và hốt sạch của cải, báu vật trong cung cấm, nội đình! Đúng là món quà Thiên Chúa sắp tặng y lớn lao, lẫy lừng, kếch sù biết chừng nào! Một đời làm tướng, còn mơ tưởng gì hơn! Sá gì chút quà mọn của bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam cõi Viễn Đông! Y tự nhủ, De Courcy này sẽ chiếm trọn cả Đại Nam này cơ! Chưa bao giờ y khoái trá đến thế! Ngay chỉ việc tưởng tượng sau khi chiếm được kinh thành, y đã quá khoái trá rồi!
Sự từ chối quà tặng của Từ Dũ thái hoàng thái hậu với thái độ phách lối đầy khiêu khích của De Courcy là xưa nay chưa từng có đối với một tên người Pháp thực dân nào! Philastre đã xúc động như thế nào khi nhận được tấm lụa có thủ bút vua Tự Đức. Philastre đã xem đó như bảo vật muôn đời của dòng họ y (36). Thế mà, De Courcy dám khinh cả quà của Từ Dũ thái hoàng thái hậu!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói từ tốn:
- Như thế, bản chức không hiểu quan đô thống đến đây để làm gì. Hay là triều đình Đại Nam phải nhờ khâm sứ De Champeaux điện về Paris, để giám quốc Pháp cử đại quan khác thay đô thống De Courcy đây? Chẳng lẽ chỉ vì cá nhân quan đô thống De Courcy mà quan hệ ngoại giao Pháp – Nam trở nên hỏng đi, xấu đi?
De Courcy tái mặt, rồi đỏ lựng. Chiếc cổ của y phập phồng như cổ một chú gà cồ. Y cảm thấy hơi run trong lòng. Y chợt nhớ, chính Bộ Chiến tranh Pháp cũng không tán đồng lắm việc dùng vũ lực súng đạn tại kinh đô Huế. Y bỗng thấy viên đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường kia thật đáng sợ.
De Courcy im lặng một lát, liền quyết định làm liều một phen, và muốn thế thì phải làm nhanh, kẻo trễ mất. Y nói:
- Tôi nói thật, đã đến lúc không thể không nổ ra chiến sự. Tôi thừa biết quan đệ nhị phụ chính ở nhà để chuẩn bị tấn công chúng tôi. Cũng chưa bao giờ quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường cùng phái đoàn sang Sứ quán này với quân binh hộ tống có đầy đủ vũ trang như vậy. Chính khâm sứ De Champeaux hồi nãy có nhận xét thế! Và mọi nội dung bàn định sáng nay đều không đi tới đâu! Thế thì chỉ có thể giải quyết vấn đề bằng súng đại bác mà thôi. Ngoài ra, tôi yêu cầu thêm, tôi chả cần gì thứ danh hão là quà của Từ Dũ thái hoàng thái hậu, bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam này! Tôi chỉ cần một món quà có giá trị ở bất kì thị trường nào, đó là ba chục ngàn (30.000) thỏi vàng, hai trăm ngàn (200.000) thỏi bạc, hai trăm ngàn (200.000) quan tiền [Mễ Tây Cơ (?)]. Nếu chỉ trong ba ngày, nộp đủ số tiền ấy, có lẽ sẽ yên cả đôi bên. Đó là tiền chiến phí phải bồi thường trước, hoặc chỉ là quà tặng, đó là còn tuỳ các ngài!
Phạm thượng, ngạo ngược, phách lối đến thế là cùng! Thật không còn gì để nói!
Đứng dậy, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói lời cuối cùng:
- Tất cả các vấn đề sáng hôm nay đã nêu ra, bản chức sẽ về bàn lại với đức vua, triều thần và hoàng thân. Đề nghị vấn đề tạm gác lại. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cố gắng giấu nỗi căm giận, lại mỉm cười tỏ vẻ thân thiện và điềm tĩnh, cái mỉm cười vốn rất nổi tiếng của ông về ngoại giao. Ông nói –. Cuối cùng, bản chức chỉ có một đề nghị cụ thể, thiết thực, có thể làm ngay được, chỉ vì lịch sự, vâng, chỉ vì lịch sự, rằng quan đô thống vui lòng nghiêm cấm quân lính của ngài vào trong kinh thành, gây xáo trộn nhân tâm, nhất là các phủ đệ có công chúa, tôn nữ (38). Cũng xin nói rõ, các công chúa, tôn nữ nước Đại Nam không có lệ cấm cung, nhưng cũng không hẳn không cấm cung… Tôi mong rằng nền văn minh Pháp nên được thể hiện ở khía cạnh lịch sự này. Và chỉ thế thôi.
Phái đoàn Đại Nam liền chào ra về.
Khi đã về đến Nha Thương bạc một cách an toàn, phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và đình thần thấy việc quân binh được chỉnh đốn, chuẩn bị vũ khí, sẵn sàng chiến đấu, giải cứu của ông và phụ chính Tôn Thất Thuyết là rất hiệu quả. Hơn nữa, trong trường hợp đối phó với mưu kế “mời đến để bắt giam”, đó cũng là cách thị uy, tạo thanh thế để De Courcy phải chùn tay, không thể làm càn. Và đâu chỉ thế, ta phải thị uy, tạo thanh thế bởi còn nhằm đối phó với âm mưu đánh chiếm kinh thành, chúng đang khích tướng để thực hiện! Cho nên, rất đúng khi Tôn Thất Thuyết phải cho Quân Phấn nghĩa bảo vệ mình, “lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát, chỉnh đốn những đồ khí giới” (39) . Một lần nữa, [phụ chính Nguyễn] Văn Tường với đình thần cho rằng: “Đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy”” (39) .
Tiếng ve vẫn đang sôi lên trong nắng tháng năm mùa hè.
Về sau, sự kiện buổi sáng hôm ấy được ghi chép vào sách sử một cách hết sức ngắn gọn:

“NGÀY ẤT MÃO, KINH THÀNH CÓ VIỆC” (39).

“TÔN THẤT THUYẾT KÈM VUA, VÂNG MỆNH BA CUNG [:TAM CUNG], NGỰ GIÁ CHẠY RA MIỀN BẮC” (39).

“Trước đây, đô thống tướng Pháp là Cô Ra Xy [De Courcy] đến Tòa Sứ xin dâng quốc thư làm lễ vào chầu yết, nhưng tức [:thông tư] trước, [mời hai phụ chính] Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng tắt sang Sứ quán hội thương. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết thác cớ không đi. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường một mình cùng [thượng thư Bộ Hộ] Phạm Thận Duật đi. Tướng [De Courcy] ấy không nghe, cố mời [phụ chính Tôn Thất] Thuyết. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết sợ đi, hoặc có việc gì xảy ra chăng; sau bèn không đi.
Ngày thường [phụ chính Tôn Thất Thuyết] cho Quân Phấn nghĩa làm tự vệ cho mình, lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát chỉnh đốn những đồ khí giới. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường với đình thần cho rằng: Đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy” (39)


6

Trận chiến không thể không xảy ra ngay tại kinh đô Huế! Đó là điều phụ chính Nguyễn Văn Tường và hoàng thân, đình thần đều thấy rõ. Có nhiều người cảm thấy lo âu, nhưng không thiếu những người cố giữ bình tâm để dũng cảm đương đầu.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường về đến Nha Thương bạc, liền từ giã nhưng thành viên của phái đoàn, lên kiệu đến ngay dinh thự của phụ chính Tôn Thất Thuyết. Đi cùng ông, có các viên tuỳ tùng.
Để ứng cứu phái đoàn ta sang Sứ quán, phụ chính Tôn Thất Thuyết đã đích thân nai nịt ra tận chốt chặn, tuy có cải trang thành một viên quản cơ. Ông cũng mới từ một chiến thuyền ở ngã ba sông Hương – sông Đông Ba, lên ngựa trở về Bộ Binh. Ông hết sức mừng rỡ khi trông thấy vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau khi thi lễ chào nhau, hai quan phụ chính vào ngồi kề nhau trên chiếc trường kỉ, để tiện bàn việc với giọng khe khẽ, đủ hai người nghe. Phụ chính Nguyễn Văn Tường kể những gì đã diễn ra ở Sứ quán lúc nãy. Ông kết luận:
- “Đến nước này, chúng ta không sao chịu nổi, thôi đành liều may rủi với trời” (40) .
Phụ chính Tôn Thất thuyết không kìm nổi niềm phẫn uất từ bao năm chất chứa nhưng phải tự đè nén trong tim. Tuy vậy, giọng ông vẫn phải giữ lễ với vẻ từ tốn:
- “Binh lính của chúng ta đều đã sẵn sàng, chỉ cần hành động gấp để bọn chúng không kịp trở tay. Ngoài Bắc chúng đã chiếm cứ Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, [rồi gần hai năm] nay, đến cửa Thuận! Nếu ta bó tay ngồi nhìn giặc Tây hoành hành thì còn gì là cơ nghiệp nữa! Tôi sắp đặt thế này: Mặt tiền quan hệ hơn cả thì đã có lính Long Thuyền, Võ Sinh, đều tinh thông võ nghệ. Trong hoàng thành do lính Cẩm Y và Kim Ngô chống giữ. Bọn mới tuyển cho đóng ở phía sau. Cửa Đông Ba có năm (5) vệ, đóng dọc về thẳng Trường Định. Tại cửa An Hoà có năm (5) vệ, cửa Hậu, năm (5) vệ. Cửa Tả có vệ Hổ Oai, chọn lựa những đứa thiện chiến. Cửa Chính Tây đã có đội Hùng Nhuệ giữ. Trong và ngoài thành đều có voi, mỗi con hai nài, súng đại bác bố trí khắp nơi. Bên kia sông, phía trước lầu sứ, lính Long Thuyền, Phấn Nghĩa chuẩn bị sẵn, hễ nghe hiệu lệnh là xung phong vào các trại để tàn sát lính Pháp” (40).
“Hai quan phụ chánh mật đàm mọi việc ổn thoả, chỉ chờ cơ hội là thực hiện” (40) .
“Cuộc bang giao Việt – Pháp đi lần đến chỗ sụp đổ. Về phía Đại Nam, như [quan dân] ta thấy, chuẩn bị chiến cuộc từ lâu. Triều đình cũng như sĩ phu, dân chúng đều muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Đất nước, nhưng tự liệu lực lượng, thấy khó địch nổi nên phải ẩn nhẫn để chờ thời. Nay như thuốc nổ bị châm ngòi, tức lòng nên phải nổ. [Phụ chính] Tôn Thất Thuyết lo sợ, chưa biết quân Pháp đến bắt mình lúc nào! Nên suốt cả ngày hai mươi mốt và hai mươi hai tháng năm, năm Ất dậu (03 – 04.7.1883), hai quan phụ chánh chuẩn bị công việc hoàn tất. Muốn tăng gia sức lực chiến đấu, [phụ chính] Tôn Thất Thuyết ra lệnh mở rộng cửa nhà lao, chặt xiềng, tháo gông, tha tội cho các phạm nhân, cho bọn chúng tiền bạc, cơm rượu và [khuyến] dụ bọn chúng cầm khí giới quyết tâm giết giặc.
Công cuộc sửa soạn nằm trong vòng quân cơ bí mật. Tuy thế, giám mục Caspar vẫn biết được và tin báo cho tướng De Courcy hay. De Courcy tự phụ ở binh sĩ, ở súng ống của mình nên xem thường, không buồn lưu ý” (40)
.
Caspar (41) là một tên gián điệp đội lốt thầy tu? Có lẽ chính xác hơn, y là một tu sĩ đã được phong đến chức giám mục, nhưng bản chất thực dân của y cũng đã tu luyện đến mức cáo già. Caspar thường trú tại chủng viện và giáo đường Kim Long, chỉ cách góc bờ kinh thành phía tây nam khoảng trên hai dặm ta (hơn một km). Y có một mạng lưới tình báo viên trung kiên là những giáo dân tại Huế và tại các nơi khác chuyển đến Huế, thường xuyên báo cáo cho y tin tức dò thám, nhưng ít khi trực tiếp tại nhà riêng trong khuôn viên thuộc giáo đường, mà chủ yếu là qua các buổi xưng tội tại nhà thờ. Lúc có tin khẩn cấp, kẻ giáo dân phản quốc làm tình báo nào đó liền vờ phạm tội trọng, đến xin được xưng tội ngay, kẻo nhỡ chết bất ngờ, chưa kịp được giải tội, sẽ bị sa hoả ngục. Hai hôm vừa rồi, giám mục Caspar cũng ngồi toà nghe xưng tội kiểu đó đến ba lần cho ba tên tình báo viên cốt cán. Sau đó, y cho một vài linh mục của y sang Sứ quán gặp De Courcy, De Champeaux với hình thức là đi tuyên uý, với cuốn Thánh kinh và tràng chuỗi Mân côi trên tay, cũng ngồi toà “dã chiến” để “giải tội” cho hai tên Pháp ấy.
Bọn thực dân cố đạo, viễn chinh ấy đã lợi dụng và làm hoen ố tôn giáo, đức tin tôn giáo ngây ngô đến mức ấy!
De Courcy thu thập hết mọi tin tình báo từ Caspar, và y không thể không cảm thấy tự phụ, chủ quan về súng ống tối tân nhất nhì Âu Mỹ của quân lính do y thống lĩnh. De Courcy vẫn phần nào không tin hai phụ chính sẽ dám chủ động tấn công. Y đang mải mê nghĩ cách nào để y ra lệnh tấn công trước, buộc quân triều đình Đại Nam sẽ phản công, nhưng rồi y sẽ đổ ngược lỗi cho quân Đại Nam gây hấn trước, và không ai có thể trách cứ gì y được.
Chiều ngày hai mươi hai tháng năm Ất Dậu (04.07.1885), De Courcy vẫn tiếp tục theo dự định, như lời mời đã nhắn gửi cho các sĩ quan ở Mang Cá (Trấn Bình đài) và ở ngay sau Sứ quán, là vẫn tổ chức một bữa tiệc ngay tại Sứ quán này. Dĩ nhiên y vẫn thừa khôn ngoan để bố trí một số tên sĩ quan khác túc trực ở các đơn vị quân lính.
Đêm ấy, sân Sứ quán sáng rực đèn. De Courcy nâng li rượu vang sóng sánh hơi men, nhếch bộ râu mép đỏ quạch, cố cười thật tươi và đầy tự tin:
- “Trong cái sự nghiệp võ bị, xưa nay tôi vẫn được rạng rỡ luôn. Dù đi đến đâu, ngôi sao của tôi cũng không mờ. Hôm nay nó càng rạng hơn nữa!…” (42) . Nào, xin mời tất cả nâng li!
De Courcy và đám sĩ quan đều uống ực một hơi, cạn li.
Suốt buổi tiệc không kéo dài, De Courcy và De Cham-peaux thật ra đang cố giấu nỗi âu lo bị tấn công bất ngờ, và lạnh người khi tự nhận thấy chính bản thân y quá chủ quan khinh địch, nhưng vẫn gắng làm ra vẻ tự phụ. Hai tên thực dân này hẳn không thể không tưởng tượng ra cảnh những trái đạn đại bác sẽ bất thần rơi xuống bàn tiệc hoặc trúng ngay đầu chúng. Đạn đại bác Đại Nam không nổ văng miểng, nhưng không thể không vỡ đầu, sụm vai, nát đùi nếu trúng phải! Do đó, hai tên De Courcy, De Champeaux cố ý lựa chỗ ngồi an toàn nhất, ấy là dưới mái hiên đúc. Và cả hai nhanh chóng rút vào nhà, sau khi chúc đám sĩ quan cứ vui vẻ với rượu thịt.
Khoảng hơn mười một giờ khuya (đầu giờ tí, canh ba), số sĩ quan đóng tại Mang Cá ra về. Theo quân luật lúc này của triều đình Đại Nam, về ban đêm, tàu thuyền không được đi dọc các sông hộ thành. Bọn sĩ quan Pháp, Ả Rập này chỉ được đi thuyền ngang sông Hương, rồi sau đó, phải đi bộ về Mang Cá. Khi ngang qua cầu Thanh Long, dọc đường song song với sông đào Đông Ba, phía trái kinh thành, chúng nghe tiếng súng nổ sau tiếng hỏi lớn: “Ai? Đi đâu vào giờ khuya?”, và tiếng trả lời là những tiếng chửi thề, như trỏ cái tục tĩu chẳng hạn, cất lên từ trong số sĩ quan ấy. Chúng liền nhoài người lao sang hai vệ đường, có tên xuống tận mép nước bờ sông. Có tên rút súng bắn trả. Nhưng lại có lệnh hô cấm bắn giả vờ của một tên sĩ quan Pháp, sau tiếng hô cấm bắn giả vờ của viên suất đội Đại Nam, lẫn tiếng hô hoán rằng bọn Pháp tấn công kinh thành, rằng quân Đại Nam tấn công quân Pháp trước… Ngẫu nhiên lại trùng kế! Cả hai bên đều giả vờ cấm bắn để giành lấy lợi thế về sau, ấy là có cớ để đổ tội “gây hấn trước” (vi phạm “hiệp” ước trước) cho đối phương!
Súng nổ vang một hồi rồi im bặt, sau hai tiếng hô cấm bắn ấy, vì không thấy đại quân Pháp ứng cứu để nổ ra trận chiến lớn, và cũng vì đại quân của chưởng vệ Trần Xuân Soạn, tham biện Tôn Thất Lệ chưa kịp chuẩn bị xong. Hai vị này không ngờ bọn Pháp ở Sứ quán lại bãi tiệc sớm đến thế! Toán lính Đại Nam đành hậm hực cho bọn Pháp đi. Sự thể như thế cũng lại vì một lẽ khác, bọn Pháp này, sau khi không thấy đại quân ứng cứu, tấn công, chúng đã xưng rõ quốc tịch, danh hiệu đơn vị.
Bọn Pháp liền đi rải ra, từng nhóm hai, ba người, cách quãng nhau. Chúng hiểu De Courcy chỉ muốn quân Đại Nam thật sự “gây hấn trước” một cách rõ ràng hơn!
Thế là kế “quy lỗi ai bắn trước” đã hỏng! Bọn Pháp gọi cầu Thanh Long là cầu mưu sát (Pont de L’Attentat), khởi từ việc ấy (43).
Từ lúc đó cho đến hơn hai tiếng đồng hồ sau, kinh thành Huế vẫn chìm trong đêm yên tĩnh.
Cho đến nửa khuya về sáng…
“Đêm ngày hai mươi hai (22) tháng [năm (5)] ấy, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngầm chia quân các dinh vệ làm hai đạo: Một đạo sai em là [Quảng] Trị [Sơn] phòng tham biện Tôn Thất Lệ cai quản. (Tôn Thất Lệ nguyên ở [Sơn] phòng, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết sức về). Nửa đêm, [đạo quân ấy] sang đò sông Hương, hợp cùng với bọn thủy sư đề đốc [Lưu Cung] và hiệp lí [thuỷ sư Cao Hữu Sung] đánh úp Tòa Sứ.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết cùng với bọn Phấn Nghĩa chưởng vệ là Trần Xuân Soạn làm một đạo đánh úp Trấn Bình đài, doanh nam Pháp [:Mang Cá].
[Phụ chính] Nguyễn Văn Tường không biết chi hết.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết phân bổ [các cánh quân] xong, bèn ở lúc đầu trống canh tư [:00 giờ 45 phút] (tức ngày hai mươi ba [23]) bắt đầu nổ súng ở đài Trấn Bình, tiếng kêu vang động.
(Khi ấy [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở Bộ Lại, đương ngủ. Binh Bộ thự tham tri là bọn Hoàng Hữu Thường nghe tiếng súng nổ, tức thì đến gõ cửa báo [tin cho phụ chính Nguyễn] Văn Tường biết. [Phụ chính Nguyễn Văn] Tường [thức] dậy, [tỏ vẻ lo] sợ nói: “Nguy rồi!”. [Ông] bèn vội vàng gửi tâu xin mở cửa Hiển Nhân [của hoàng thành] và cửa Đại Cung [của Tử Cấm thành], chạy vào Tả vu, nhưng không biết làm thế nào)” (44)
.
Thật ra, phụ chính Nguyễn Văn Tường cảm thấy mình thật vụng về trong vai trò một đại thần “không biết chi hết” (44) về cuộc tấn công Sứ quán và Mang Cá. Nhưng đây là chiến trận, không chỉ nổ súng vung gươm mà còn là mưu trí với những mưu kế. Trận chiến không phải là sân cỏ chơi cầu, đấu vật với tinh thần thượng võ, vì mục đích giáo dục đạo đức, trước hàng vạn đôi mắt khán giả. Ông và phụ chính Tôn Thất Thuyết đã bàn tính với nhau, dù chưa hết lẽ, nhưng vẫn xác quyết kế sách đối phó. De Courcy, De Champeaux và Caspar muốn dùng kế li gián để chia rẽ hai vị phụ chính, dẫu chúng không dám trắng trợn như tên vua Hiệp Hoà gần đây (45), không tinh vi như Quang Trung Nguyễn Huệ một trăm năm trước (40). Những tên Pháp thực dân mấy hôm rày chỉ cố quyết đòi bắt mỗi một Tôn Thất Thuyết là nhằm kế li gián ấy. Bọn Pháp cố li gián thì hai phụ chính phải tương kế tựu kế, vờ như mắc mưu trúng kế chúng: [Phụ chính] Nguyễn Văn Tường không biết chi hết !
Thật lòng, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn âu lo có kẻ tố giác. Hơn nữa, đây chỉ là nước cờ liều, khi bị chiếu tướng. Đây là “thế hi sinh” trong môn đấu vật, có nguy cơ bị phá thế, và không tránh khỏi phải hi sinh thật, mất tất cả, từ khí tiết, danh dự đến tính mạng. Nếu không bị giặc Pháp và “tả đạo” phá thế, ông sẽ cùng quân Cần vương hất ngược chúng ra biển Đông, hay ít ra cũng khiến cho chúng dập mặt… Nhưng nguy cơ bị phá thế là rất rõ! Ông cũng ý thức rất sâu sắc, cả ông lẫn phụ chính Tôn Thất Thuyết đã ở vào thế cưỡi trên lưng hổ, tên đã ở trên cung! Nhưng tình thế quá cấp bách, cho nên biết rằng dẫu còn sơ hở, xác suất thất thế, rủi ro còn khá cao, cũng phải đành chấp nhận.
Vào Tả vu Điện Cần chánh, ông liền được vua Hàm Nghi và Tam Cung triệu vào nội cung. Ông cũng lúng túng khi bất đắc dĩ phải nói dối, và cố giấu vẻ lúng túng, kính cẩn tâu bày, chính ông cũng “không biết gì hết” về trận chiến đang xảy ra. Ông chỉ xin nhà vua và Tam Cung bình tâm, cố gắng ẩn núp thật cẩn trọng theo sự hướng dẫn của các viên thái giám và chưởng vệ Hữu quân Hồ Văn Hiển. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lại tâu:
- Thưa Tam Cung và muôn tâu hoàng thượng, dẫu sao, sĩ dân, quan chức cả nước, nhất là ở kinh thành, chứ không phải riêng thần và quan tướng quân phụ chính, đều thấy rằng bọn Pháp lần này cố quyết bức bách triều đình ta. Chúng bức bách bằng cách đem quân binh vào với số lượng khá nhiều, vũ khí mới nhất của Âu Mỹ, và bằng cách ngạo mạn, phách lối đến mức phạm thượng, dám từ chối cả tặng phẩm của đức thái hoàng thái hậu, dám ngang ngược đòi chiến phí trước khi đánh chiếm kinh thành. Như thế, không thể không xảy ra chiến trận ngay tại kinh đô được. Thần vẫn nhớ bài dụ cuối cùng của đức Dực tông Anh tiên đế: “Vả lại, thế cưỡi hổ đã thành. Ta không tính [:đánh] chúng, chúng cũng tính [:đánh] ta. [Ai] tính [:đánh] trước được thì thắng. Nên cùng lòng, hợp sức tính [:đánh] ngay, khỏi đến nỗi đắp núi còn thiếu một sọt đất. Trẫm hàng ngày mong mỏi các ngươi nên hết lòng tính [:đánh] ngay mới được” (46) . Thần xin mạo muội tâu rằng, chiến trận không khỏi xảy ra, thì ta nên đánh trước để chiếm thế thượng phong. Nhưng dẫu quan tướng quân phụ chính đánh trước thì cũng do chúng bức bách ta trước mà thôi.
Và rất chân thành, phụ chính Nguyễn Văn Tường khiêm tốn nhưng rất cương quyết xác định ý thức trung quân của một đại thần phải như thế nào trong sự biến hiện đang xảy ra. Sau đó, ông xin được phép ra phía sau cửa Hoà Bình, đến khu vườn sau khuôn viên Đại nội để hỏi xem tình hình chiến trận ở đệ nhị phụ chính, thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết.
Hai phụ chính đã gặp nhau. Bấy giờ tướng quân Tôn Thất Thuyết đang điều khiển hai mũi tấn công, Sứ quán và Mang Cá. Các viên giao liên giữa hai mặt trận với bản doanh tổng chỉ huy cứ theo đường đi dây chuyền của những con thoi chạy qua chạy lại ở các cung trạm. Từ Mang Cá về đến khu vườn sau cửa Hoà Bình này cũng có đến năm, bảy trạm chuyển tin như thế. Từ Sứ quán về đến đây tuy gần hơn, nhưng phải qua một con sông Hương khá rộng, cũng đã có các trạm chuyển tin tương tự.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường không muốn để một vài viên quan và số lính cùng các thị vệ ở gần đấy hiểu rõ, nên ông không nói gì nhiều, ông chỉ cần biết tình hình chiến trận diễn biến như thế nào, thắng hay bại, để thực hiện phương án thích hợp mà ông đã bí mật bàn với phụ chính Tôn Thất Thuyết.
Trong khi đó…
“Quân Pháp đóng cửa chặt, lẻn nấp đợi sáng, nhưng [chúng vẫn] từ từ nổ một, hai tiếng súng lớn.
([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết khi ấy ở vườn sau điều khiển.
[Chưởng vệ Trần] Xuân Soạn ủy [nhiệm] người báo cho [bọn Pháp ở] Đài Trấn bình biết quân Pháp [ở Sứ quán] đã bị súng ta bắn chết hết rồi. Tiếng súng lớn [ở Sứ quán] bắn, [bọn Pháp ở Đài Trấn bình] tưởng là súng quân Pháp ở ngoài sông Đài Trấn bình bắn vậy).
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại sai vần súng lớn lên thành, chỉ [nòng súng] bắn Tòa Sứ. ([Toà Sứ] cũng bị phá vỡ hai nơi). Đạo quân Tôn Thất Lệ cũng phóng súng bắn cháy các nhà tranh gần Tòa Sứ.
Tới lúc sáng rõ [khoảng năm giờ sáng], quân thủy lục của Pháp đều họp súng lớn, xe máy để ở trên đài [tàu] và trên [bệ] cột buồm tàu, bắn liền mấy tiếng, ầm ầm như sấm. Và đạn bay rơi xuống, [khiến quan ta] bị thương, trúng [miểng] chết khá nhiều. Và [đạn] rơi vào các cung điện, nhà cửa ở trong hoàng thành và cung thành, gián hoặc [:cách quãng, đạn] có xuyên hoại.
Bọn lính Pháp lại chia nhau từng toán, đem súng tay ngang ngược bắn phá.
Hai đạo quân ở trong và ở ngoài của ta bị tan vỡ cả.
Trong thành rối loạn)” (47)
.
Trận chiến đó còn được ghi nhận lại bởi một sử gia hoàng tộc về sau một cách tỉ mỉ hơn qua nhiều thao tác, công đoạn khảo chứng…
“Tại Mang Cá, hai đại đội bộ binh của người Phi châu, ba trung đội thuỷ quân lục chiến; tại khu đất nhượng địa trong thành gần Mang Cá: hai đội lính Phi châu, một trung đội thuỷ quân lục chiến và pháo đội; tại Tòa Khâm: hai đại đội thủy quân lục chiến; phía bắc Mang Cá có hai pháo hạm Javơlin (Javeline) và Briônvan (Brionval) và một chiếc tàu nhỏ. Tổng cộng cả thảy ba mươi mốt (31) sĩ quan, một ngàn ba trăm tám mươi bảy (1.387) binh sĩ và mười bảy (17) cỗ đại bác.
Sau buổi dạ hội náo nhiệt, quang cảnh lần lần trở lại yên tĩnh. 11 giờ 30 ai nấy đều ra về.
Toà Khâm và Mang Cá đang chìm đắm trong giấc ngủ. Bỗng nhiên vang lên tiếng đại bác và tiếng reo hò vang dậy. Những trại lợp tranh của lính ở bị những bó đuốc của quân ta xung phong vào đốt, bốc cháy dữ dội. Hăng hái nhất là lính Phấn Nghĩa, tức là lính của [phụ chính] Tôn Thất Thuyết mộ làm tay chân, cùng những phạm nhân ở lao Thừa Thiên và lao Trấn Phủ được thả ra để đái công chuộc tội. Họ mang súng hoặc đại đao, mã tấu, mình trần trùng trục, tóc bỏ xoã xuống ngang gối. Đạo quân đánh vào Tòa Khâm do Tôn Thất Liệt [:Lệ], em của [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, cùng quan thủy sư đô đốc [Lưu Cung], thuỷ sư hiệp lí [Cao Hữu Sung] chỉ huy; còn cánh quân đánh vào Mang Cá thì đề đốc [đã được thăng chưởng vệ] Trần Xuân Soạn và [phụ chính] Tôn Thất Thuyết tự thân hành đốc suất. Một viên đại bác từ pháo đài ta trên cửa thành bắn sang làm thủng một lỗ lớn trên nóc Tòa Khâm. Tường và mái đều bị xuyên đạn. Nhà kho, nhà vệ sinh sụp đổ và bốc lửa. Đại uý Bruynô (Bruneau), pháo binh hải quân, bị một viên đạn xuyên qua ngực, ngã ra chết, đại uý Bruanh (Brouin) của đội binh châu Phi gãy mất hai ống chân, tử trận. Hai sĩ quan Hétsen (Heitschell) và Lacơroa (Lacroix) bị thương nặng.
Quân Pháp đã bảo vệ được kho khí giới, đạn dược và lương thực. Nhưng quân trang thì bị cháy sạch đến nỗi viên tiểu đoàn trưởng Métdingê (Metzinger) suốt cả ngày 05.07 [1885], chỉ mặc có một cái quần đùi, mãi đến tối mới kiếm được một cái quần dài, nhưng lại thiếu kéo, phải dùng đến dao để hớt bớt cho vừa.
Do một cái cửa ăn thông qua trại, một trăm sáu mươi (160) binh sĩ của Pháp kéo vào Tòa Khâm. Chính tướng [giặc] Cuốcxy đã điều khiển toán quân này, đăït mỗi cửa sổ hai người bắn ra để chặn đứng những đợt xung phong của lính Việt.
Một điều may mắn cho Pháp là Nhà Bưu điện cách Toà Khâm vào lối ba trăm (300) thước không bị hư hại gì cả, nên tướng [giặc] Cuốcxy (De Courcy) cho đánh điện gọi lính ở Hải Phòng cấp tốc vào Huế và gọi lính ở Thuận An kéo lên” (48)
.
Do sự cẩn trọng của tên tướng De Courcy, Nhà Bưu điện hẳn được y bố trí một số lượng quân khá lớn để bảo đảm đường dây điện báo liên lạc. Tướng quân phụ chính Tôn Thất Thuyết hẳn quyết cắt đứt, phá tan ổ liên lạc điện báo ấy để bọn Pháp không thể gọi quân tiếp viện, nhưng dĩ nhiên ông lại phải tập trung binh lực vào mũi tập kích Sứ quán, do đó đội quân với số lượng không nhiều tấn công quyết phá huỷ Nhà Bưu điện đã bị bọn Pháp đông hơn, hoả lực mạnh hơn, đánh bật ngay từ vòng ngoài.
Ở Sứ quán, tất cả quân binh của tham biện Tôn Thất Lệ, hiệp lí thuỷ sư Cao Hữu sung và thuỷ sư đô đốc Lưu Cung ào ào tiến công như vũ bão giữa những đợt đại bác dập xuống.
“Ban đầu súng đại bác của ta bắùn không lấy gì làm trúng đích, nhưng về sau đã tàn phá được nhiều nơi, làm thủng trần, sập vách. Cả Tòa Khâm rộng lớn chỉ còn lại một gian phòng chính là đứng vững.
Tại Mang Cá, sau những phút kinh hoàng đã qua, trung tá Pécnô (Pernot) và thiếu tá Métdingê chia quân phản công đánh chiếm kinh thành. Súng đại bác [giặc] Pháp chĩa bắn vào các ổ súng của ta. Hai pháo hạm, nhờ có ánh lửa của những túp nhà bị cháy nên đã bắn trúng vào mặt đông bắc của kinh thành. Quân Pháp ở Mang Cá, kéo vào tập trung ở khu đất mà ta đã nhượng cho Pháp từ một năm nay, rồi chia thành ba toán kéo đi tấn công các ngã, tiến vào Thành Nội. Quân ta kháng cự rất hăng nhưng sau một tiếng đồng hồ thì rút lui và tan rã hàng ngũ. Pháp chiếm được sáu cỗ đại bác hạng lớn đặt trên mặt thành rồi dùng lại những khẩu súng này để bắn lại quân ta.
Trời gần sáng, chiến cuộc vẫn tiếp diễn dữ dội nhưng quân ta thế yếu cứ lùi dần. Pháp đốt hai bộ, Lại và Binh, là chỗ ở của [hai phụ chính Nguyễn Văn] Tường và [Tôn Thất] Thuyết và các công thự, các trại lính. Gặp dân chúng chạy loạn, không phân biệt già trẻ trai gái, [giặc Pháp] đều tàn sát một cách rùng rợn, tiếng la khóc vang trời dậy đất.
Tám (08) giờ ba mươi (30) sáng, trên kì đài ta đã phất phơ lá cờ Pháp. Tiếng gọi là cờ nhưng kì thật là sợi dây thắt lưng của một tên lính Phi châu kết với hai mảnh vải.
Chín (09) giờ thì quân Pháp vào Đại nội, quân ta rút ra khỏi hoàng thành.
Pécnô phải dùng đến một tiểu đoàn canh gác cung điện, để khỏi bị cướp phá. Tuy thế, các điện đài, dinh thự khác trong hoàng thành, suốt bốn mươi tám (48) tiếng đồng hồ bị quân Pháp ra tay vơ vét. Phần nhiều trong túi tên lính Pháp nào cũng có những nén bạc cướp được của kho ta. Một phóng viên của Hãng Ava (Havas) đã nói rằng chính ông đã mua được của các tên lính ấy tám (08) kilô bạc nén cả thảy. Ông lại còn cho biết suốt trong năm ngày, năm mươi (50) người chuyên việc sắp xếp các bảo vật có giá trị không thể tưởng được để đưa về Pháp.
Theo sự ước lượng của Pháp thì quân số của ta trong trận chiến gồm hai chục ngàn (20.000) người, tử trận một ngàn hai trăm (1.200) đến một ngàn rưỡi (1.500) người.
Về phía Pháp: hai (02) sĩ quan và chín (09) binh sĩ chết; hai (02) sĩ quan và bốn (04) binh sĩ bị tử thương; năm (05) sĩ quan và bảy mươi mốt (71) binh sĩ bị thương.
Pháp còn lấy của ta được số võ khí quan trọng: tám trăm mười hai (812) khẩu đại bác, một vạn sáu (16.000) [khẩu] súng tại võ khố, vô số súng trường, gươm giáo trong Nội.
Công cuộc sửa soạn chiến tranh, hai quan phụ chánh giấu kín, không để cho vua Hàm Nghi và Tam Cung biết. Tới khi thấy rõ sự thất bại, lúc ấy mới tâu với vua và Tam Cung hay” (49)
.

7

“[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG TÂU XIN VUA VÀ XA GIÁ BA CUNG [:TAM CUNG] ĐI RA KHIÊM CUNG TẠM THỜI LÁNH LOẠN:

(Khi ấy [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường đã vào bên Tả vu [Điện Cần chánh]. Một lát, [ông] xin mở cửa Hoà Bình, đến chỗ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết điều khiển. [Phụ chính Nguyễn Văn Tường] nhìn trông [tình hình], biết là thất bại rồi, [nên] lại vào Tả vu, tâu xin vua xuất hành.
Trong khi vội vã, [ông] chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền, văn lí mật sát, và ấn kiềm, hai quả, với [vật] hạng để vàng bạc, [bảo] đồ đệ đem theo).
[Phụ chính Nguyễn Văn Tường] dùng hữu quân đô thống là Hồ Văn Hiển phù xe. Giờ thìn [07 – 09 giờ sáng] hôm ấy, [xa giá vua Hàm Nghi và xa giá Tam Cung] bắt đầu từ cửa Tây nam ra” (50)
.

Gần sát cửa Tây nam, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhìn vào bốn chiếc kiệu ngự giá. Chiếc đầu tiên là của vua Hàm Nghi, ba chiếc kế tiếp phía sau là của Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi) và hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi). Những chiếc kiệu, võng khác là của các hoàng thân, của bà Nguyễn Nhược thị Bích (người vợ giỏi chữ, thơ hay nhất của vua Tự Đức)… Bấy giờ, tiếng súng tấn công của bọn Pháp, tiếng súng phản công của ta đang nổ rền. Nhưng tiếng súng giặc vẫn phân biệt được, quả thật, đang nổ át cả tiếng súng quân ta. Nhân dân dắt díu, bồng bế nhau, nhờ các viên lính Hữu quân đang làm nhiệm vụ hộ tống xa giá, tâu xin cho phép họ ra khỏi thành. Trẻ con kêu khóc inh ỏi thật xốn xang gan ruột. Nhưng các viên lính cầm ngang cây giáo, ngọn thương, tạm ngăn lại. Không thể chần chừ, phụ chính Nguyễn Văn Tường tâu xin xa giá tạm ngừng lại trong lòng cửa thành khá rộng, để tránh rủi ro do đạn đại bác của giặc Pháp.
Không đợi ông tâu lần thứ hai, thái hoàng thái hậu Từ Dũ hỏi ngay:
- Quan quận công phụ chính đó ư? Thế trận có cầm cự được lâu không?
- Tâu, thần thấy bọn Pháp đã ồ ạt tấn công từ hai phía. Hình như quân của chưởng vệ Trần Xuân Soạn đang cố chận giặc ở Anh Danh. Còn phía Sứ quán, bọn Pháp đang vượt sông. Tình thế khó cầm cự được lâu.
- Thế thì khanh định đưa xa giá và lão cung cùng Hai Cung đi đâu? Trường thi, Khiêm lăng hay Tân Sở?
- Tình thế này, theo ý thần, Tam Cung vẫn lên Khiêm lăng như dự định, còn đức vua cứ lên Trường thi… Phải chia ra hai cánh, vì sợ chúng sẽ truy kích. Thần sẽ hội ý với quan tướng phụ chính sau về địa điểm phải xuất hạnh.
- Khanh nên vì đức vua, lão cung và Hai Cung cũng như hoàng thân, đình thần, lưu lại đây với chúng để giảng hoà (51).
Sau một thoáng ngẫm nghĩ, phụ chính Nguyễn Văn Tường liền nói với giọng cương quyết:
- Thần xin tuân lệnh. Thần cũng có ý định, nếu chúng truy kích gắt quá, thần sẽ cản hậu bằng cách đưa thư thương thuyết cho tên tướng De Courcy. Hắn sẽ phải ngừng động binh cho đến khi đức vua và Tam Cung ra đến Tân Sở. Thần cũng dám biết vị quốc vong thân. Đức vua và Tam Cung phải được bảo toàn để lo toan cho mai hậu. – Giọng quan phụ chính Nguyễn Văn Tường bỗng nghẹn ngào, nhưng ông quyết giữ vẻ bình tĩnh –. Thần xin tuân mệnh… Có thể, thần sẽ không được dịp còn sống sót để gặp lại đức vua và Tam Cung… Các quả ấn “Văn lí mật sát” , ấn kiềm, vàng bạc, thần đã trao cho chưởng vệ Hữu quân Hồ Văn Hiển, bảo ông ta hết sức chú tâm bảo vệ. Xin xa giá lên đường lên phía chùa Thiên Mụ, kẻo trễ mất. Hữu quân sẽ đi trước mở đường, đi sau để hậu vệ. Xin hoàng thượng và Tam Cung yên lòng.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường nghe có tiếng khóc từ trong các chiếc ngự giá.
Cố nén lòng lại, ông ra lệnh cho chưởng vệ Hồ Văn Hiển phù giá lên đường ngay.

“[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG VÂNG Ý CHỈ CỦA TỪ DỤ THÁI HOÀNG THÁI HẬU VÀ LƯU LẠI GIẢNG HÒA (52).

[Phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long” (52)
.

Với số quân khoảng năm chục viên, ông lên kiệu đi tắt đến giáo đường Kim Long để quyết gặp giám mục Caspar. Trong phương án cản hậu, chặn sự truy kích của giặc Pháp, ông cũng đã bàn với Tôn Thất Thuyết dự kiến này. Ông cảm thấy thật xấu hổ, vì cũng chính giám mục Caspar này đã đón tiếp Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp lúc thất thủ thành luỹ ở Thuận An! Nhưng ông tự dặn lòng, ông không bao giờ, không mảy may nào giống với hai tên quan chủ “hoà”, xu thời một cách vị kỉ đó. Ông không bao giờ đầu hàng. Nói thẳng ra, lúc này, ông chỉ trá hàng và sẽ chỉ trá hàng mà thôi. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố nén cảm giác xấu hổ ấy, để ra hiệu lệnh cho mấy viên hầu cận chỉ huy đội lính cận vệ. Ông bảo họ, một nửa phải luôn luôn đi sát ông, một nửa kia lo canh gác các cửa ra vào thuộc khuôn viên giáo đường. Ngoài ra, thấy những toán lính Phấn nghĩa nào ra khỏi thành, chạy lên đường này, phải gọi lại để bổ sung quân. Có gì bất trắc, phải kiên cường chiến đấu. Dặn xong, ông ra lệnh cho phu kiệu bước ngay.
Từ cửa Tây nam lên đến giáo đường và chủng viện Kim Long chỉ vài dặm ta.
Hai cánh cửa trước sân rộng thuộc khuôn viên giáo đường mở ra, sau khi một người lính rung chuông và trao danh thiếp của quan đệ nhất phụ chính. Trong giáo đường, các cố đạo Pháp lẫn linh mục, thầy giảng người Việt đã biết sự biến xảy ra từ lúc mới nổ súng. Cố nhiên, họ đã biết kinh thành sẽ thành trận địa từ rất lâu trước đó!
Nghe lời bẩm báo có quan đệ nhất phụ chính đại thần đến trong lúc cấp bách này, giám mục Caspar cảm thấy quá bất ngờ. Sau một thoáng bàng hoàng, y nhếch môi cười nửa miệng. Giám mục Caspar biết thế nào cũng có một viên quan đến nhờ y giúp cho việc cầu “hoà”, như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp trước đây, nhưng y không ngờ đó lại là quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đứng đầu phe chủ chiến, vốn cứng rắn, người chưa từng một lần y được gặp. Giám mục vội ra tận sân đón tiếp.
Vào phòng khách, cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung thường ngày, phụ chính Nguyễn Văn Tường nói ngay:
- Không biết giám mục vui lòng hay phiền lòng khi tôi đến đây? Hiện tại là sự biến bất ngờ. Tôi chưa rõ, nhưng thôi thì cứ tạm cho là do quan tướng phụ chính nổ súng trước. Dẫu sao, tình thế rất cấp bách. Vậy tôi nói ngay, tôi cũng như đức vua, Tam Cung và hầu hết đình thần, hoàng thân đều “không biết chi hết” về sự biến đang xảy ra. Cho nên, ý định của tôi và lệnh dụ của Từ Dũ thái hoàng thái hậu là mong giám mục sẽ chuyển giúp cho ý kiến của tôi, thay mặt đức vua, Tam Cung, triều đình, kể cả hoàng tộc, nhắn gửi đến tướng De Courcy, khâm sứ De Champeaux, là tôi muốn được gặp tướng De Courcy ngay lập tức để chấm dứt sự nổ súng. – Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Đề nghị giám mục cho người truyền đạt ý kiến ấy ngay cho. Phải vội, không thì sẽ muộn mất.
- Vâng, nhưng quan phụ chính cũng nên viết vài chữ để tôi bảo một giáo sĩ chạy qua bên Sứ quán trao cho tướng De Courcy?
- Thế thì nhờ giám mục viết luôn cho tướng De Courcy ấy. Ông ta sẽ tin ở giám mục.
- Vâng, có lẽ phải như vậy. Và sẽ có người chạy đưa thư của tôi ngay. Xin mời quan phụ chính ngồi xuống đã.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường sực nhớ mình đang đứng. Ông ngồi xuống. Lát sau, ông thấy giám mục Caspar viết một bức thư có nội dung như ông vừa nói với ý định cố giữ sự hoà hảo giữa hai nước trong tình hình này thì tốo”hơn. Và ông còn đọc thấy, giám mục đã thể hiện rõ ý tưởng, rằng, sẽ không cản nổi một vụ tương tự như hai trường hợp Françis Garnier (1873), Henry Rivière (1883) hoặc cuộc chiến tranh lương – giáo như ở Nghệ – Tĩnh mười hai năm trước (1873 – 1874); và phụ chính Nguyễn Văn Tường hoàn toàn không chịu trách nhiệm về sự việc có thể xảy ra, nếu De Courcy tiếp tục bức bách nhà vua, Tam Cung, triều đình và hoàng thân, bởi nhân dân, sĩ phu, quan chức đã căm uất quá rồi. Sự căm uất ấy, nếu nhìn nhận một cách khách quan, là rất chính đáng. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng đã nói rõ: Người Pháp và các cố đạo Pháp sẽ bị tấn công, nếu De Courcy tiếp tục gây chiến, bức hiếp như vậy. Ý của phụ chính Nguyễn Văn Tường là mong De Courcy không nên kích động giáo dân và bọn “phù Lê” cướp chính quyền hoặc dẫn quân binh truy kích đoàn ngự giá, dồn triều đình và sĩ dân đến chỗ phải quyết chiến cho dẫu sự thể sẽ xảy ra như thế nào.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhờ viên thông ngôn, phiên dịch của mình đọc lại. Ông thấy trong bức thư ấy, đã thể hiện được một vài ý tưởng chỉ là hăm doạ De Courcy để y không truy kích đoàn ngự giá mà thôi. Đó là đòn khóa chặn âm mưu kích động giáo dân “tả đạo” và bọn “phù Lê” cướp chính quyền. Đó cũng là kế cản hậu và hoãn binh (53). Vả lại, thật ra, hơn ai hết, ông biết rất rõ toàn bộ binh lực của triều đình đã được phụ chính Tôn Thất Thuyết dốc hết vào trận tấn kích và cố thủ từ lúc nửa khuya về sáng đến lúc này. Nếu có tái diễn những trận đánh như hai vụ FranÇis Garnier, Henry Rivière thì phải dăm bảy tháng sau, nếu vũ khí, đạn dược của quân Cần vương còn đầy đủ.
Giám mục Caspar viết thêm một vài dòng tái bút:
“Tôi là giám mục Caspar, tôi chỉ viết lại những ý kiến giảng hoà của phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đang tuân theo sắc văn (lệnh dụ) của Từ Dũ thái hoàng thái hậu và đại diện cho triều đình Đại Nam. Sở dĩ tôi viết thay thư này là bởi lí do: Muốn để quý đô thống tướng De Courcy và khâm sứ De Champeaux tin tưởng” (54).
Phụ chính Nguyễn Văn Tường thúc giục giám mục chuyển ngay đến cho De Courcy.
Bảo người thân tín chạy giao thư, ngay trong lúc tiếng súng tuy đã ngớt nhưng vẫn còn nổ, giám mục Caspar tỏ ra nhiệt tình. Đúng là y rất nhiệt tình, bởi y chỉ mong nước Pháp và giáo hội của y sẽ “bảo hộ” Đại Nam một cách chặt chẽ, nghĩa là thắng lợi sắp đến nơi. Y cảm thấy rất khó khăn nếu thực hiện cho được ước muốn trước đây là lật đổ, tiêu diệt hẳn triều Nguyễn để lập nên một Nhà nước mới hoàn toàn Thiên Chúa giáo. Từ lâu, y biết phải theo kế sách “tàm thực” lâu dài, chứ không thể đánh nhanh, ăn nhanh như dự định ban đầu, ít ra là từ mấy chục năm trước, của các cố đạo, các quan tướng viễn chinh Pháp được. Và lúc này, dẫu là một tên gián điệp sừng sỏ, nhưng giám mục Caspar, y cũng chưa biết kế sách của hai phụ chính như họ đã bàn với nhau.
Chuyện trò thêm một lát, giám mục Caspar mời phụ chính Nguyễn Văn Tường dùng bữa. Quan phụ chính có một thoáng ngần ngại. Thuốc độc, biết đâu? Nhưng ông vẫn cố bày tỏ sự tín nhiệm xã giao. Vả lại, ông từng có kinh nghiệm trong các chuyến thương thuyết ngoại giao với người Pháp. Một cách khôn khéo, ông bảo ông chỉ dùng bữa theo kiểu thân tình của người Việt, chung mâm, chung tô, chung dĩa. Ông quyết mời giám mục cùng ăn. Ông chỉ ăn món nào giám mục gián điệp Caspar đã xúc, đã gắp vào chén và đã nuốt. Với kinh nghiệm sẵn có, ông vẫn ứng xử được một cách rất tự nhiên. Giám mục gián điệp Caspar tinh ý, y cũng liền bày tỏ thiện chí.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung nhưng thật ra, ông hiểu ông có thể sẽ bị bắn chết, hoặc chí ít cũng bị bắt làm tù nhân, hoặc làm con tin, ngay trong ngày hôm nay. Ông biết, trong lịch sử đã có nhiều người chết trong trường hợp oái oăm, ngặt nghèo như thế này. Nếu ông chết trong lúc trá hàng này, không ai khác, chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ thanh minh cho ông. Tôn Thất Thuyết vẫn là người hiểu rõ ông nhất, kế đó là những viên quan quân hầu cận của ông từ lâu và hôm nay, lúc này, chỗ này, tại bữa ăn này. Ông cảm thấy yên lòng, sẵn sàng đương đầu với cái chết.

8

Sau khi phụ chính “[Nguyễn] Văn Tường vâng ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại giảng hòa” (55), “[ông] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết ra sau, gặp [xa] giá, bèn một mình hộ chuyển [xa giá] đến Trường Thi (ở xã La Chử). Nhân [thế, ông] kèm [xa giá] đi ra ngoài [phía] bắc.
Thự hiệp biện đại học sĩ là Phạm Thận Duật, thự tham tri Trương Văn Đễ, và Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ đều đi theo xa giá.
(Khi đó, [đoàn] tùy [tùng và xa] giá, chỉ có xe loan [:xe vua Hàm Nghi, xe Tam Cung] và lính biền binh lẻ tẻ chầu chực, trên dưới ước một trăm (100) người. Còn dư [:số còn lại là] các dinh vệ, sau khi thua trận, đều [lập] tức tìm đường tản về quê quán).
Giờ ngọ [11 – 13 giờ], [đoàn tuỳ tùng, xa giá] mới đến xã Văn Xá [gần Huế]. Nghỉ một chút, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì kèm vâng mệnh vua, [tường thuật] đêm qua, tình hình vua phải ra đi, thông báo cho thiên hạ cần vương. [Đây là thông báo cần vương, chưa phải là Dụ Cần vương phát đi vào ngày mồng 02 tháng 6 Ất dậu (13.7.1885)]. [Ông sai phái lính trạm] lần lượt [thông] tư cho Nam Bắc tuân làm.
Ngày bính thìn [hai mươi tư tháng năm (06.07.1885)], vua cùng với xa giá Ba Cung [Tam Cung] đến tỉnh Quảng Trị; dừng nghỉ ở hành cung” (55)
.
Còn các quan ta, một số thoát ra khỏi thành được, liền lẩn tránh vào nhà dân ở các xã thôn quanh đó, một số khác tìm đường ra Quảng Trị phò vua và Tam Cung.
“(Từ thự hậu quân chưởng phủ Nguyễn Hanh, thự thống chế Ngô Tất Ninh, thự Tả quân Đinh Tử Lượng, Công bộ tham tri Tôn Thất Phan, biện lí Trần Khánh Tiến, thuỷ sư hiệp lí Cao Hữu Sung, phủ doãn Nguyễn Đình Dương, toản tu Phạm Phú Lâm cũng đều tiếp nối đến hành tại)” (56) .
Tình hình ở kinh đô Huế và riêng trong kinh thành hết sức bi đát!
“Đương lúc xa giá nhà vua đã đi rồi, quân Pháp lên kì đài treo cờ hiệu tam tài [:cờ tam sắc, tức là quốc kì Pháp]. Súng bắn vẫn còn ầm vang. Quan lại, nhân dân giành nhau tìm cửa chạy ra, rồi tự dày xéo lên nhau. [Quan và dân bị] chết và bị thương rất nhiều.
[Với lòng thù hận hai quan phụ chính], quân Pháp bèn đốt hai bộ Lại và Binh (nguyên là nơi [hai phụ chính Nguyễn] Văn Tường và [Tôn Thất] Thuyết ở đó). Và thuốc đạn, khí giới [cũng bị đốt, khói lửa] bốc lên xông trời (hai ngày đêm không tắt). [Bọn Pháp] chia giữ các cửa thành trong, ngoài, và các kho tàng, cung điện.
Ngày phát gạo kho, [bọn Pháp] thuê vát những dân còn ở trong thành và những bọn ở ngoài lẻn vào (đều là đồ vô lại, nhòm vào toan lấy đồ đạc của quan tư còn bỏ sót lại). [Bọn Pháp còn sai người] sửa đắp các trại lính làm nơi trú đóng [của chúng], và [chúng sai người] nhặt chôn, hoả táng các xác bị chết và bị nạn ở lúc trận vong.
Dưới đô thành, [nhân dân] nơm nớp sợ, chạy” (57)


9

Một trong những lí do khiến quan đệ nhất phụ chính phải có phương án “kẻ ở”, “người đi” , và chính vua Hàm Nghi, Tam Cung cũng ra sắc văn dặn ông phải ở lại “giảng hoà” , là không thể để kinh thành, nhất là hoàng thành và nhân dân Huế, phải lâm vào tình trạng bi đát hơn.
“[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường hôm ấy đã vào nhà thờ đạo Kim Long. [Ông] bèn cùng với giám mục Lộc [Caspar] thương thuyết, cùng đến Tòa Sứ trần tình, cùng bàn nỗi khổ với đô thống Pháp [De Courcy], lại xin giảng hòa” (58) .
Sự thể thực hiện phương án “kẻ ở”, “người đi”, “giảng hoà” ấy không thể đơn giản, ngắn gọn như thế…
Lúc khoảng chín giờ sáng nay, De Courcy rất bất ngờ khi một giáo sĩ cải trang làm thường dân xin vào Sứ quán. Bấy giờ, tiếng súng đã hầu như tắt hẳn ở phía hữu ngạn sông Hương. Chỉ ở tả ngạn, phía trong kinh thành, tiếng súng vẫn đôi lúc lại vang lên, mặc dù trên kì đài, cờ tam khoang xanh trắng đỏ được kết bằng dây thắt lưng với mấy mảnh vải, nghe đâu là áo của vợ tên sĩ quan Pháp hoặc Ả Rập nào đó, đã phất phơ bay.
De Courcy hết sức căm giận khi thấy sĩ quan, quân lính của y có đến hàng trăm tên bị chết, bị thương, và dinh thự nứt vỡ, đồn trại, quân trang bị thiêu rụi. Y định bụng sẽ bắn ngay viên đệ nhất phụ chính, “kẻ thù không đội trời chung” (59) với người Pháp kia. De Courcy đọc bức thư, hiểu ngay viên phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa thuyết phục, vừa hăm doạ y rằng, ông ta không chịu trách nhiệm nếu người Pháp và các cố đạo Pháp bị quân binh triều đình hoặc sĩ dân tấn công. De Courcy vừa giận, vừa âu lo.
De Courcy hỏi De Champeaux. De Champeaux vốn là một kẻ rất nhiều năm quyết “đập tan tành” thượng thư, phụ chính Nguyễn Văn Tường. Nhưng De Cham-peaux vẫn là một gã thực dân khá khôn ngoan một cách thâm độc. Y lại hiểu tình hình Đại Nam và uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường. Giết ông ta lúc này thì quá dễ, nhưng tổn thất sẽ rất lớn. Tuy nhiên, việc ông ta quay lại cầu “hoà” là một điều bất ngờ. Ông ta mà đầu hàng thật sao? Hay ông ta đang thực hiện một mưu kế nội công ngoại kích gì đây?
De Courcy và De Champeaux bàn bạc với nhau hồi lâu, để rồi chúng quyết định phải giam giữ phụ chính Nguyễn Văn Tường. Để giam giữ ông ta, phải bố trí ít ra là một trung đội quân viễn chinh canh gác cẩn mật, do tên đại uý Schmitz vốn rất thận trọng chỉ huy. Sau đó, cả hai tên đô thống, khâm sứ liền nói cho viên giáo sĩ cải trang đưa thư đến: “Hãy đợi một chốc”. De Courcy viết nhanh một lá thư ngắn cho phụ chính Nguyễn Văn Tường, rằng y đồng ý gặp để bàn chuyện “hoà”!
Gần xế trưa, phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục Caspar đi thuyền sang bến Sứ quán. Họ được mời vào một dinh cơ tiêu điều, đầy vết đạn, mùi thuốc súng và mùi cháy khét vẫn còn vướng vất, khói lửa còn ngún toả, trước đây là một Sứ quán khang trang.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường chợt nhận ra, cả hai viên đô thống, khâm sứ đều có chữ lót quý tộc là “De” (không biết dòng họ bỏ tiền ra mua hay có công lao thật sự). Ông thấy họ, sau một đêm mất ngủ, không thể không căng thẳng, không thể không mệt mỏi. De Courcy, De Champeaux ngồi đối diện với phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục gián điệp Caspar. Những người lính cận vệ luôn luôn đứng sát sau lưng quan phụ chính.
De Courcy đã có thời gian để suy nghĩ, bàn bạc với De Champeaux, nên lẽ ra, phần nào y cũng đã bớt bức xúc. Nhưng lúc này, quả thực, y vẫn không kìm nổi sự căm giận. Y nói phủ đầu để hạ nhục:
- Quan đệ nhất phụ chính đã “đem lòng cự chiến, đến đây làm gì?” (60) . – De Courcy căm giận xen lẫn với bối rối đến run cả giọng nói –. Ngài đã chống đánh chúng tôi, ngài còn đến đây làm gì?
Phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung:
- Tôi rất tiếc khi phải đến đây trong tình huống không vui, không hữu nghị như thế này. Nhưng, dẫu sao sự biến cũng đã xảy ra. Nguyên nhân xa và gần tôi đã nói với giám mục Caspar. Nói cụ thể và ngắn gọn thế này, trận chiến xảy ra là do quan tướng quân phụ chính Tôn Thất Thuyết, nếu không phải quân Ả Rập bắn trước. Tuy nhiên, điều đó dẫu sao cũng chỉ là nguyên cớ trực tiếp. Sự thật và nguyên nhân chính như thế nào, phía người Pháp, phía Đại Nam đã hiểu từ lâu, ít ra là mấy chục năm trước, từ khi người Pháp bắt đầu nổ súng vào Đà Nẵng. Còn riêng tôi, tôi không can dự gì, tôi “không biết chi hết” vào sự biến này. Tóm lại, thay mặt cho nhà vua trẻ và Tam Cung, hoàng thân, triều thần, tôi trần tình (trần thuật tình trạng) như vậy. Sự biến đã gây ra bao nhiêu chết chóc, tang thương! Thật ra, bản chất cuộc chiến tranh người Pháp tiến hành là không văn minh, là phi nhân. Dẫu các ông căm giận, tôi cũng phải nói thật như vậy. Mấy chục năm qua, Đại Nam buộc lòng phải kháng chiến vệ quốc, thế thôi. Dẫu sao, nỗi khổ cũng đã quá chất chồng rồi! Cuối cùng, tôi mong nên giữ tình “giao hảo” giữa hai nước Pháp – Nam. Như thế hẳn là tốt hơn, nhất là trong tình hình hiện giờ.
Thật sự, De Courcy, De Champeaux lúc này cũng như giám mục Caspar hồi sáng, chúng đều không tin phụ chính Nguyễn Văn Tường “không biết chi hết” vào sự biến. Có điều, như đã bàn với De Champeaux lúc gần trưa, khi mới nhận được bức thư do viên giáo sĩ cải trang mang tới, nên De Courcy vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Y cố ghìm lại cơn tức giận điên cuồng trong lòng. Y dùng ngôn từ xã giao:
- Thôi được, thưa ngài phụ chính. Tôi mong tình “giao hảo” sẽ tốt hơn giữa hai nước! Tôi cũng rất âu lo là nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ phải vất vả giữa rừng rú và chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục. Do đó, mong ngài hãy liên lạc để rước nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân về lại hoàng thành (58).
Như thế, cuối cùng, theo sự bàn bạc mưu kế với De Champeaux trước đó và sự thuyết phục của phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc này, tên “đô thống [De Courcy] ấy cũng nghe lời [“giảng hoà”], dặn phải rước ngay vua và Tam Cung hồi loan về triều” (58) .
Điều phụ chính Nguyễn Văn Tường vui mừng nhất là ông đã cản được sự truy kích của quân Pháp đối với xa giá. Nếu chúng truy kích, chắc hẳn sẽ nguy to cho đoàn ngự giá! Nhưng chúng đã không tiếp tục động binh. Đó là một điều ông thấy chính ông đã thành công.
Còn nay mai sẽ ra sao? Nay mai, chắc hẳn De Courcy sẽ ép buộc ông kí tên vào tuyên cáo đầu hàng? Ông sẽ tính toán thực hiện kế hoạch viết các tuyên cáo yết thị tại kinh hay gửi cho các quan tỉnh theo kiểu “bì lí xuân thu” (61) (hình thức ngôn từ và nội dung lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu) và phối hợp chiến với đàm như đã bàn với quan tướng quân Tôn Thất Thuyết. Hơn nữa, trước đây, vua Kiến Phúc, vua Hàm Nghi và hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã thông tư cho các quan tỉnh: Mật dụ mới là văn kiện chính thức, còn các dụ “thoả hiệp” với Pháp chỉ có tính chất đối phó với Pháp mà thôi; phải hiểu theo kiểu “bì lí xuân thu” , kiểu viết mà nhà nho uyên thâm đọc vào mới thật sự hiểu. Về phía Pháp, chúng cũng thừa hiểu tính chất “hai mặt” ấy, nhưng chúng chưa thể ép buộc triều đình Đại Nam được.

10

Aymonier, một tên Pháp năm ngoái đã nhờ khâm sứ tại Huế xin Viện Cơ mật cho phép y đi “du khảo bác vật”. Hơp Ai, một ngườiø Chăm (Ninh Thuận), bị Aymonier buộc phải tháp tùng theo y, nào ngờ để đi khuân vác các bức tượng, phù điêu, bi kí Chăm và Việt! Ông chính là tác giả bản Ariya Po Parơng (“Trường ca về quan lớn Pháp”) . Hơp Ai đã viết rõ, chính tác giả khởi hành từ tháng giêng năm Ất dậu (1885) (62):

“Ngày hai mươi tháng giêng năm Dậu
Quan Pháp sai bắt chúng tôi đi cùng”…


Và trong chừng mức nào đó, dẫu sao, ông cũng như một nhân chứng về cuộc kinh đô quật khởi, bốn tháng sau đó:

“… Vào lúc bảy giờ ngày hai mươi tháng sáu
[theo lịch Chăm (?)]
Quân Pháp đánh vào Huế, bắn phá dinh vua
Khói lửa bay tung mù trời
Quân nhà Nguyễn chết như kiến,
cả ngựa lẫn voi
Sau đó, quân Pháp tiến vào mở cửa thành
Binh lính trong thành sống sót,
chẳng biết đường nào mà đi
Mãi tới trưa mới tìm được lối ra
Bụng đói, mắt thâm quầng, chân run đi không nổi
Hoảng hồn bước lên rồi té ngã
Thêm choáng váng bởi thuốc súng,
người họ mệt lả bơ phờ
Có người bò trườn ra tới cửa thành
Vừa ngóc đầu lên nhìn
thì bị một tên lính Tây đứng gác,
nạt lớn không cho ra
Khi ấy [[nghe tin]] Tôn Thất Thuyết phò vua
Cùng chạy ra khỏi thành đi ẩn náu ở xứ khác
Nguyên soái [De Courcy] cho chạy tin
khắp Đất nước
Lệnh cho quân nhà Nguyễn
trong mười ngày
phải [[nộp vũ khí]] xin hàng
Tướng [Pháp chiếm cứ] trong triều [:hoàng
thành] cũng đã giao thành
Rồi [phụ chính Nguyễn Văn Tường trá hàng]
kí sắc lệnh chịu hàng
không chống Pháp nữa
Ngoài khơi, bảy chiến hạm chực sẵn
Sáng hôm sau, quân Pháp ra lệnh truy tìm
nhà vua…” (62).


Những sử gia đương thời, trong cuộc đã ghi chép rõ:

“Buổi chiều hôm ấy, [phụ chính Nguyễn] Văn Tường bèn bàn với quan Pháp, [ông] vào thành tạm đóng (đóng ở trong nhà Bộ Hộ).
Hôm sau (tức là ngày hai mươi bốn [24 (06.07.1885)]), [phụ chính Nguyễn Văn Tường và tên tướng Pháp De Cour-cy] bèn hội đồng yết thị cho hai nước hòa hảo như cũ.
Nhưng [bọn Pháp] cho [rằng phụ chính Nguyễn Văn Tường] ở trong thành là không tiện, lại bàn ra Nha Thương bạc, tạm đóng ở đấy làm việc. [Sau đó, ngày hai mươi bảy tháng sáu Ất dậu (09.07.1885)], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] bèn đem hiện tình giảng hòa, [cho lính chạy ngựa trạm] phi tấu nơi hành tại [:nơi vua và Tam Cung ở] và thông báo cho Nam, Bắc biết [phục chức cho những quan lính Cần vương trở về trong hạn định mười hai ngày, kể từ ngày ban hành bản tuyên bố]” (63)
.
Đó là hai văn kiện công khai, có tính chất đối phó, và tất nhiên, phụ chính Nguyễn Văn Tường đã có mật lệnh kèm theo.

11

“Lúc đó, trong đô thành, nhân dân hãy còn nhốn nháo, sợ hãi. Bọn gian đồ, phần nhiều đi cướp bóc ở ngoài mặt phố và các nơi làng xóm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường nghiêm sức [:nghiêm khẩn ra lệnh] [cho lính] đi tuần ngăn cấm. Viên huyện Hương Trà tức thì bắt được vài tên phạm ở hai chợ Nam Phố, An Hòa, đem chém đầu bêu ngay để cảnh cáo. Các bọn [trộm cướp, hôi của] khác nghe tin, đều dẹp cả” (64) .
Không những phụ chính Nguyễn Văn Tường phải lo toan ổn định kinh đô, ông còn phải lo lắng cử người ra tâu bàn với nhà vua, Tam Cung và đặc biệt là bàn bạc với quan đệ nhị phụ chính.
“[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường lại ủy [nhiệm cho] Binh Bộ thị lang là Phạm Hữu Dụng, [đích] thân đến hành tại [ở Quảng Trị], đem hiện tình bàn với [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, [và] tâu vua biết, định xin rước xe vua về. [Phạm] Hữu Dụng đến [nơi], bị [phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngăn cản. ([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết không tâu vua, nhưng dặn [Phạm] Hữu Dụng về báo với [phụ chính Nguyễn] Văn Tường:
+++ Phải nên đoàn kết với quân Pháp;
+++ [Pháp] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về).
[Phạm] Hữu Dụng sợ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, bèn từ về ngay, không dám tâu vua biết” (65)
.
Phụ chính Tôn Thất Thuyết lắng nghe thị lang Bộ Binh Phạm Hữu Dụng trình bày khá cặn kẽ những gì phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiến hành trong “thế hi sinh” tại Huế. Ông hết sức cảm phục và không khỏi áy náy, ái ngại khi nghe kể.
Phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng đã có ý định phải giả vờ hoà hảo với Pháp, bởi thật sự, ông hiểu triều đình Đại Nam bị cô lập và rất bế tắc hiện nay, kể từ sau khi Pháp và Trung Hoa đã kí kết hiệp ước Thiên Tân hồi cuối tháng tư nguyệt lịch vừa qua. Hơn nữa, ông lại hiểu hơn ai hết về tình trạng quân binh tan rã sau khi kinh đô quật khởi và bị thất thủ. Ông không phải không sáng suốt, không phải không nhận thấy rằng, trong tình hình này, cần phải hoà hoãn để tranh thủ thêm thời gian, tạo thế và lực mới, đồng thời thúc đẩy cho sự xuất hiện thời cơ mới, rồi kháng chiến mới có thể thành công. Nhưng thật lòng, ông cũng biết bọn Pháp hiện giờ đang lúc thừa thắng. Chúng đã đánh bại Phúc Châu trong lục địa Trung Hoa, lại đang vây Đài Loan, phong toả Trường Giang (sông Dương Tử), buộc Trung Hoa nhà Thanh đầu hàng. Pháp đang thừa thắng như thế, lẽ nào chúng bỏ mất thời cơ tốt đối với chúng! Cho nên, phụ chính Tôn Thất Thuyết vẫn phải đưa vua lên kinh đô kháng chiến Tân Sở, phát Dụ Cần vương một cách hùng tráng và có đủ tư thế uy nghi, như kế hoạch đã bàn với phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau đó, việc đưa vua về hay không sẽ tính tiếp. Ông cũng bàn kế hoạch với phụ chính Nguyễn Văn Tường là sẽ đưa vua về, còn ông sẽ tiếp tục kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp hoặc như Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, nhưng không núp dưới bóng cờ quân Thanh như họ, mà phải giữ cho được tính độc lập, tự chủ, tuy rất cần đến việc thiết cốt là phải tranh thủ viện trợ của các nước (nhưng đau xót thay, điều này hiện nay là bế tắc!). Kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp mật thiết, chặt chẽ với nhau đã vạch ra. Chính ông sẽ lãnh đạo các quan chức, sĩ dân trung nghĩa kháng chiến, còn vua Hàm Nghi và phụ chính Nguyễn Văn Tường sẽ tiếp tục “hai mặt”, “bì lí xuân thu” để triều đình Đại Nam có điều kiện viện trợ vũ khí, đạn dược, quân trang và lương thực cho quân kháng chiến của ông. Chiến phối hợp với đàm! Có điều, đưa vua Hàm Nghi về ngay lúc này là chưa tiện. Hẳn phụ chính Nguyễn Văn Tường muốn thúc hối ông lên Tân Sở ngay để phát Dụ Cần vương.
“[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì lấy ngày hai mươi bảy, kỉ mùi [09.07.1885], ép vua lên xe đi ra [:lên] Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].
(Khi ấy [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đã tâu xin Ba Cung cùng đi, nhưng Ba Cung có ý lần lữa. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết bèn [bí] mật cùng với bọn hỗ tòng là Hồ Văn Hiển, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ, lấy hôm ấy, ước [vào khoảng] giờ sửu [01 – 03 giờ khuya về sáng], hộ thánh giá [“thánh giá” = xe của nhà vua] đi Sơn phòng [Tân Sở].
Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản đều hiện tiếp tục đến hành tại. Các quần thần đều không biết gì cả. Sáng ra [họ] mới rõ việc.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết [lập] tức phái cho Phấn nghĩa quân về đòi Trương Văn Đễ, Ngô Tất Ninh đều tiếp tục lên [Sơn] phòng [Tân Sở].
Bọn Tôn Thất Phan đều lại về kinh. Duy Nguyễn Hanh, Đinh Tử Lượng, Lương Thành, phủ thần ấy bàn hãy lưu lại ở tỉnh ấy).
Do đó lòng người càng thêm ngờ sợ, không biết theo về đâu” (66)
.

12

“Riêng một hạt phủ Thừa Thiên, vì có [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở đó giảng hòa và [thường] hay [ra] hiệu lệnh ngăn cấm, hơi nhờ được yên. Còn dư [:ngoài ra], các hạt Nam, Bắc, thì bọn côn đồ tụ họp, cướp bóc nổi lên. Lương, giáo ngày thường thù nhau, sinh ra tàn sát lẫn nhau, nơi nào cũng có.
Đô thống Pháp lại yêu cầu [phụ chính Nguyễn] Văn Tường để chiêu tập quan lại, thôi bắt binh dân, hiểu bảo cho lương, giáo Nam, Bắc cùng yên và cấm sự xảy ra trộm cướp, hạn đến tháng [thứ] hai [:nhị nguyệt = 02 tháng] là thanh thiếp” (67)
.
Cũng như hai văn kiện trước, lần này De Courcy và De Champeaux lại ép buộc phụ chính Nguyễn Văn Tường ra tuyên cáo mới. Nội dung của nó là cả một nỗi đau lòng, và hạn định De Courcy đưa ra là cả một nỗi nhục nhã:
+++ 1. Triệu tập các quan chức trở về triều đình và nha sở để điều hành công việc.
+++ 2. Chấm dứt việc tăng cường lực lượng quân binh của triều đình. Trong khi đó, hiện tại triều đình do phụ chính Nguyễn Văn Tường lãnh đạo tạm thời chỉ còn một số quân binh rất ít ỏi, yếu kém!
+++ 3. Ra lệnh ngăn cản cuộc chiến tranh lương – giáo đang bùng nổ hầu như khắp Trung Kì, Bắc Kì.
+++ 4. Tăng cường trật tự, trị an xã hội (67).
De Courcy ra hạn định chỉ trong hai tháng! Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhẫn nại trong tình thế phải hoà hoãn. Ông tự nhủ với nỗi đau xót như cứa vào gan ruột:
“Ta đang ở trong thế võ thuật được gọi là thế hi sinh. Phải cố nhẫn nhục cho đại cuộc theo kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp chặt chẽ, và phải nhẫn nhục cho chính nghĩa vì nước, vì dân. Không còn cách nào khác”.
Và tất cả tấm lòng son của ông vẫn hướng về vua Hàm Nghi, Sơn phòng Tân Sở và Tam Cung ở hành cung Quảng Trị…
“Tháng sáu [nguyệt lịch, Ất dậu], ngày mồng một quý hợi [12.07.1885], vua [Hàm Nghi] ở Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].
(Khi ấy, sau [trận chiến], quân Phấn nghĩa bị thua, trốn, tan chạy. Quan Pháp treo thưởng cho người bắt được quân ấy. Bọn quân ấy bèn đều lục tục đến Sơn phòng theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết).
Ba Cung vẫn nghỉ xe ở hành cung tỉnh ấy. Trước [đó] vài ngày [tức trước ngày mùng một tháng sáu (tháng năm Ất dậu chỉ có hai mươi chín ngày)], [phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại uỷ [nhiệm] người gửi tâu, xin Ba Cung tiếp tục đi Sơn phòng [:Tân Sở]” (68).
“Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản vẫn bàn cùng [Tôn Thất] Lương Thành, cho [rằng] thành Quảng Trị là nơi phong trần, nghĩ xin Ba Cung [Tam Cung] hồi loan [:về lại kinh đô Huế]. [Ông] đã tư cho [phụ chính Nguyễn] Văn Tường biết [ý kiến của Tam Cung để] làm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường được tin báo [như vậy], bèn gửi thư đến khâm sứ Pháp là Tham Bô [De Champeaux] [để De Champeaux] trình bàn với đô thống Cô Ra Xy [De Courcy] thoả nghĩ phúc làm [:nghĩ suy cho kĩ, nếu đồng ý, trả lời lại để tiến hành].
Ngày mồng hai tháng [sáu] ấy (13.07.1885), [phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức tâu đệ trước xin Ba Cung hồi loan ở Khiêm cung, cho yên lòng dân. [Và ông] tịnh uỷ cho biện lí là Trương Như Cương, Tôn Thất Niêm kính đến rước” (69).

TẬP TÂU [CỦA PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG]

“Lược rằng (70):
“[Chúng] thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, vâng di mệnh tiên đế, cùng sung chức phụ chính. Nay mà hỏng việc, tội thần không nói sao cho hết. Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế. Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi. Huống chi kinh thành, miếu điện, lịch đại, sơn lăng, một buổi bỏ đi [là] như không. Lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy.
Nay tiếp tờ tư của Trương Quang Đản tỏ bày mọi lẽ, [thần] đã gửi thư cho khâm sứ Pháp [De Champeaux]. Cứ theo lời phúc tư [:thông tư trả lời] thì đô thống đại thần [De Courcy] rất mong rước vua về.
[Thần] cũng mong giữ gìn [được] cung điện như cũ. Duy trong thành ấy chửa tĩnh, cũng có người ngầm muốn nổ súng. [Nhược] bằng rước vua vào thành, sợ có [những nguy cơ] chưa tiện, xin hãy ngừng nghỉ ở Khiêm cung.
Đô thống [De Courcy] ấy xin phái một trăm (100) hay hai trăm (200) quân ở ngoài canh chực, để giữ khỏi sự quan ngại. Nhưng bọn quân ấy nên [:cần] dùng thứ ăn như trâu, dê, gà, vịt mọi thứ, ta cũng ưng cho.
Thần trộm chiểu cung điện trong thành dẫu còn như cũ, nhưng số quân Pháp ở đó khá nhiều, chưa được yên lặng, xin [vua và Tam Cung] trú ở Khiêm cung, tưởng cũng thoả thuận.
Thần nghiệp dĩ phái người kiểm soát, chỉnh đốn, tịnh uỷ [nhiệm] bọn thần [:bọn bầy tôi] là Trương Như Cương đi Quảng Trị chực đón, hỗ tòng [:đi theo xa giá]. Cúi xin mệnh giá hồi loan, để yên lòng dân” (70).
[Kí tên:
thần Nguyễn Văn Tường].
“Cuối cùng [của tập tâu], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] viết niên hiệu, mượn dùng ấn quan phòng của khâm sứ Pháp)” (70)
.

Viết xong, phụ chính Nguyễn Văn Tường trao cho De Courcy và De Champeaux xem, theo yêu cầu của chúng trước khi viết. Cả hai tên hiện đang ngồi ở Nha Thương bạc. De Champeaux có biết ít nhiều chữ Hán. De Courcy chăm chú theo dõi gương mặt của viên khâm sứ, kẻ đã luôn luôn quyết “đập tan tành” phụ chính Nguyễn Văn Tường. Y thấy De Champeaux cau mặt, quắc mắt lên trong một thoáng rồi vội giấu đi cái quắc mắt ấy. De Courcy muốn hỏi cho rõ nội dung bức thư.
- Tên phụ chính quỷ quyệt ấy đã viết cái gì thế?
- Lão già Đại Nam chết tiệt! Y viết thế này đây, tôi sẽ dịch ngay cho đô thống nghe. Nhưng quan đô thống đừng vội phẫn nộ. Dẫu sao, ta cũng cần lợi dụng lão thêm một, hai tháng nữa mà thôi.
De Champeaux dịch ra tiếng Pháp bằng giọng nói. De Courcy không thể không nổi giận. Nhưng ngẫm lại, y thấy lời khuyên của De Champeaux không phải là sai.
De Champeaux thưa với tên đô thống:
- Thưa đô thống, ông thấy có đáng ghét không chứ! Hay ta bảo lão phụ chính ấy viết theo dạng bản chúng ta thảo ra trước? Linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư sẽ giúp ta việc này.
De Courcy định tán đồng ngay, vì y rất muốn giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực, sự bức hiếp. Nhưng De Champeaux vội nói tiếp:
- Hay ta cứ để cho lão tự nhiên. Chắc lão không ngờ bức thư này lão viết lại gây cho ta khó chịu đến thế! Chúng ta quả thật cũng không hiểu tâm lí người Đại Nam cũng như người Đại Nam khó hiểu hết tâm lí người Pháp.
De Champeaux nói đúng, hai phía của mọi cuộc chiến tranh, kẻ xâm lược và người chống xâm lược khó hiểu nổi nhau.
De Courcy đâm bực mình với cả De Champeaux. Y cảm thấy tên khâm sứ này cũng đa đoan, nói thế này rồi bảo thế nọ, thật lắm chuyện.
- Thôi, sao cũng được, cứ đóng khuôn dấu Sứ quán Pháp vào bức thư. Ta chỉ cần nhà vua tí hon và ba bà lão Tam Cung ấy về Huế càng sớm càng tốt. Bọn ấy về đây xong, ta nắm lấy đầu chúng, bắt chúng tuân lệnh. Thế là gần hai chục triệu người thuộc dân tộc Đại Nam này phải tuân lệnh ta. – De Courcy chợt cười khoái trá một cách hung ác –.
De Champeaux gật đầu với cái nhếch mép và tiếng cười gằn. Y nói:
- Vâng, đó là mục đích của nước Đại Pháp và Hội Truyền giáo Paris. Còn tên Nguyễn Văn Tường, lão ta hận thù chúng ta, thúc giục quân binh chống đánh chúng ta, lại còn xúi Trung Hoa gây chiến tranh với chúng ta mấy năm trời, nhất là mười mấy tháng gần đây! Lão ta phải đền tội, nhưng, chưa vội…
De Champeaux lại đang lo âu về lòng căm giận của y đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, bởi y biết, ông ấy là “một người mà mới vài hôm trước, [và ngay cả hôm nay], cái tên làm rung động cả thành Huế, một người đã ngồi tới địa vị cao nhất của triều đình; người mà trong mấy năm sau cùng này đã giữ cả vận mệnh của nước Việt Nam [Đại Nam]. Người ấy là Văn minh [rồi Cần chánh] điện đại học sĩ kiêm phụ chính đại thần: Nguyễn Văn Tường” (71) . Uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường là một sức mạnh đáng sợ mà chính y, De Champeaux, phải dè chừng, không khéo phong trào Cần vương sẽ thổi bùng ngọn lửa căm hờn vào người Pháp, bọn viễn chinh và cố đạo thực dân.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường đang ngồi bên kia phòng, không hề hay biết hai tên thực dân đầu sỏ đang bàn với nhau về bức thư ấy và đang toan tính, cân nhắc âm mưu.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường viết tập tâu này trong hoàn cảnh ông đang bị giam giữ ở Nha Thương bạc, dưới đôi mắt cú vọ của bọn Pháp và tay sai của chúng (72). Ngay khuôn dấu, ông cũng phải dùng khuôn dấu của Sứ quán Pháp, mặc dù vẫn viết niên hiệu Hàm Nghi. Do đó, lời lẽ không thật như lòng ông đang sôi sục căm thù bọn xâm lược Pháp. Khi trách móc phụ chính Tôn Thất Thuyết không cho đưa vua Hàm Nghi về như đã bàn với ông, ông cũng phải nói một cách kín đáo: “Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế [không chịu cho đưa vua Hàm Nghi để lãnh đạo bằng mật dụ như kế hoạch đã bàn]” (70) . Ông không phủ nhận việc ông cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc và nhất trí tiến hành cuộc kinh đô quật khởi. Ông cũng tính liệu đến thực tế những con người quen sống trong hoàng cung: “Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi” (70) . Cũng vì vậy, tuy là lí do giản dị, cụ thể đến tầm thường, mà ông phải nghĩ đến kế sách chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính. Nơi rừng núi ấy, dẫu khí hậu, lam chướng đã tốt dần, nhưng vẫn còn dày dặc sơn lam chướng khí. Nơi đó, ông đã tôi luyện mười mấy năm làm tri huyện, bang biện (và đấy là chưa kể năm năm dài tiễu phỉ ở núi rừng biên giới phía bắc). Nhưng thật ra, đó chỉ một lí do rất thứ yếu, nhưng ông nâng lên thành chính yếu, để bọn Pháp có thể tin được! Và chỉ một câu “Thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy” (70) cũng đủ cho bọn Pháp cau mày, khó chịu, thù ghét! Quả thật, De Courcy lẫn De Champeaux, chúng không hiểu rằng, đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, ông viết như thế là quá “nhẹ nhàng”, “nhẹ nhàng” đến mức ông rất chua xót, đau đớn, vì phần nào trái lòng. Vả lại, ông cũng không phải không muốn nói thẳng vào mặt hai tên xâm lược thuộc loại đầu sỏ ấy rằng, ông chỉ tạm thời chấp nhận “thoả hiệp” với chúng, chứ không đầu hàng, khuất phục chúng bao giờ! Ông những muốn tấn công chúng cho chúng thật tan tác, quét sạch chúng khỏi Đất nước ngay tức khắc, chứ đâu phải cam đành “thoả hiệp”, “đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại” (70) như thế!
Nhận được tập tâu ấy, “Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưỡng cung [hai cung: hoàng thái hậu Vũ thị, hoàng thái phi Nguyễn Văn thị] chuẩn như lời tâu, lấy ngày mồng ba, ất sửu [14.07.1885], thì hồi loan.
(Phủ thần là Trương Quang Đản đem quan quân binh phu tỉnh ấy theo đi hộ tống).
Ngày mồng năm, đinh mão [16.07.1885], [Tam Cung] về đến Khiêm cung.
([Trương] Quang Đản lại trích giải hai trăm (200) thoi bạc kho của tỉnh ấy, [loại] ăn sáu đồng, tiền đồng, một trăm (100) quan, [mang] theo, đến cung tiến)” (73)
.

13

“[Phụ chính] Tôn Thất Thuyết còn giữ [xa] giá vua còn đóng ở [Sơn] phòng Quảng Trị [:Tân Sở], đã kèm vua ra Lệnh dụ Thiên hạ cần vương [đây là Dụ Cần vương chính thức và duy nhất], lại sẽ dụ bảo Nguyễn Văn Tường và yên ủi những người họ mạc ở trong kinh. [Mỗi thứ] đều một đạo, do đường dịch lộ chuyển chạy về kinh.
(Khi ấy tự [Sơn] phòng [Tân Sở] đến kinh, ống trạm còn chuyển đệ được).
Đó đều là việc từ mồng bảy tháng này [18.07.1885] trở về trước” (74).

LỆNH DỤ THIÊN HẠ CẦN VƯƠNG

“Từ xưa chính sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh [chiến], giữ [thủ], hoà mà thôi.
Đánh thì chưa có cơ hội.
Giữ thì khó chắc đủ sức.
Hoà thì chúng đòi hỏi không chán.
Đang lúc thế sự muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dùng QUYỀN [NGHI, QUYỀN BIẾN].
Thái vương dời tới đất Kỳ, Huyền Tông chạy sang đất Thục, người đời xưa cũng đã có làm như thế.
Nước ta gần đây gặp nhiều biến cố. Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, chưa kịp lo việc tự cường, tự trị. Bọn phái viên của Tây hoành hành áp bức ngày một thậm tệ. Vừa rồi chúng tăng thêm binh thuyền, buộc ta những điều không thể làm theo được. Ta theo thường lệ khoản đãi, chúng không chịu nhận một tí gì. Nhân dân kinh đô náo động, kinh sợ nguy biến sắp tới nơi. Các vị đại thần mưu quốc tìm kế giữ yên xã tắc, bảo vệ triều đình: [Nếu] cứ cúi đầu nó bảo gì nghe nấy, ngồi yên để mất cơ hội thì sao bằng dò xem ý chúng muốn hành động mà đối phó trước? Ví thử việc chẳng chịu lòng, thì còn có thể làm như ngày nay để mưu tính việc về sau cho ổn. Ấy là tuỳ theo thời thế mà định ý kiến như thế. Phàm những ai biết chia lo việc nước, tất cũng dự biết như vậy, mà cũng đều nghiến răng căm phẫn. Cái lòng giết giặc, giết thù, nào ai chẳng có. Vậy thì gối đòng, gõ chèo, cướp giáp, vần chum, há không có người nào hay sao? Kẻ nhân thần ở triều đình chỉ nên theo nghĩa mà làm, nghĩa ở đâu thì chết sống cũng ở đấy. Xưa Hồ Yển và Triệu Thôi nước Tấn, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật đời Đường là hạng người thế nào?
Trẫm đức mỏng, gặp phải biến cố này, không thể hết sức chống giữ, để kinh thành bị hãm, Từ Cung phải lên xe lánh nạn. Tội ở mình trẫm tất cả, hổ thẹn vô cùng. Nhưng mối luân thường quan hệ, trăm quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, chắc không nỡ xa bỏ trẫm. Người trí giúp mưu, người dũng giúp sức, người giàu xuất của để giúp quân nhu, cùng nhau đoàn kết, chẳng ngại nguy hiểm, làm cách gì mà có thể cứu nguy, đỡ ngã, gỡ chỗ khó, giúp khi bí, thảy đều hết lòng hết sức. May mà trời cũng chiều người, chuyển loạn làm trị, chuyển nguy làm an, thu lại đất đai, phục lại bờ cõi, cơ hội này thật phúc cho nước nhà, tức là phúc cho thần dân. Đã cùng nhau lo lắng được thì cùng nhau yên vui, há chẳng tốt lắm ru?
Nhược bằng lòng tiếc chết nặng hơn lòng thương vua, việc lo cho nhà chăm hơn việc lo cho nước, quan thì thác cớ lánh xa, lính thì bỏ ngũ lánh trốn, dân thì không biết vì nghĩa, hăng hái với việc công, sĩ thì cam chịu bỏ nơi sáng đi vào nơi tối, như thế dù có sống sót ở đời thì thân tuy mặc áo đội mũ mà không khác loài chim muông. Sao nỡ làm vậy cho đành?
Thưởng hậu, phạt cũng nặng, triều đình sẵn có phép thường, không nên để điều hối hận về sau. Ai nấy nên nghiêm chỉnh tuân theo dụ này.
Khâm thử!
Hàm Nghi năm đầu, tháng sáu, ngày mùng hai (13.07.1885)” (75).
Tuyên dụ tại Sơn phòng Tân Sở, Cam Lộ, Quảng Trị.

“NGÀY MỒNG HAI [THÁNG SÁU (13.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG” (76):

“Lược nói:
“Y [Cô Ra Xy (De Courcy)] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lí thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc”]. Phàm những khoản gì bách thiết [:bức thiết], [thì ngươi cùng chúng] chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau, mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này [:lúc đó] ta [sẽ ban] mệnh [lệnh] cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư. Nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.
Nếu không như thế thì các miếu xã, lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ [nhiệm] cho khanh. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời. Rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh thua vậy.
Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa, tài lược, không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [:nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh nên nghĩ cho kĩ nhé. [Khanh] có muốn nên [:cần phải] tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét, cũng chẳng hại gì”” (76).

“NGÀY MỒNG BẢY [THÁNG SÁU (18.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI] CÁC NGƯỜI TRONG HỌ” (77):

“Đại lược nói:
“Dụ Thọ Xuân vương, phụ chính Hoài Đức công và các bọn hoàng phiên công chúa, nghĩ coi: Nước Nam ta nhiều lần bị kẻ khác bức hiếp nhiều khoản, phàm có tai mắt khí huyết không ai là không uất ức buồn rầu, chẳng riêng người trong họ ta mà thôi. Trẫm vâng di mệnh của tiên quân, và các vương công phụ thần cùng suy tôn lên quyền giữ việc nước. Phàm có trăm điều đều duy kiến nghị, phải ấy thì theo. Trẫm tuổi trẻ, kiến thức chưa rộng, dám đâu chuyên trái việc gì, cho nên hễ khi tiếp được thư của nước Đại Pháp gửi đến khoản gì, nếu quá lăng nhục và yêu sách quá đáng, nhân tình không thể chịu được, mật nghe vương công và các phụ chính khuyên bảo, không đâu là không cưỡng tự đau đớn nín náu, chịu theo êm việc, vì muốn bảo toàn xã tắc, để họ mạc lâu dài hưởng tôn quý giàu sang vậy. Không ngờ sứ Pháp ngang ngược ngày thêm, không còn được chút quốc thể, cúi xuống đất, ngửa lên trời, xiết bao hổ thẹn, vạn bất đắc dĩ mà phải làm ra việc này. [Trẫm] quay nhìn nơi lăng miếu và các bậc ý thân, thực không biết bao nhiêu là tưởng nhớ, chả biết trong tôn tộc từng có tin đến sự lo xuôi nghĩ ngược của ta không?
Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh [tức là Nguyễn Văn Tường] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn. Huân thần [:Nguyễn Văn Tường] tâm sự như thế, cáng đáng như thế, [huân thần ấy] thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần [Nguyễn Văn Tường] ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định.
Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất, nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời. Thế là lành lắm, tốt lắm.
Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay. [Vậy] càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ.
Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường.
Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng”” (77)
.

Ngoài “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” vốn đã được soạn thảo trước, hai bản dụ ấy do chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi cùng viết. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc bấy giờ còn bị giam giữ ở Nha Thương bạc với sự canh giữ của một toán lính Pháp và Ả Rập, toán lính này đặt dưới sự chỉ huy của tên sĩ quan Schmitz (72), nên ông chỉ được nghe hai bản dụ ấy qua một viên quan tham biện. Hôm ấy, còn có mặt tham tri Hoàng Hữu Thường, thị lang Phạm Hữu Dụng… Viên quan tham biện này học thuộc lòng rồi đọc nhỏ lại cho ông nghe, như thể đang trò chuyện.
Hơn lúc nào hết, trong lúc bị giam giữ như một người tù, phải chấp nhận “thế hi sinh” để chống lại bọn xâm lược Pháp và “tả đạo” này, phụ chính Nguyễn Văn Tường rất đỗi xúc động, xúc động đến nghẹn ngào khi nghe đọc hai bản dụ đó trong khi đi dạo quanh trong khuôn viên Nha Thương bạc. Lúc ấy, bọn lính Pháp và Ả Rập và cả bọn tay sai, mặc dù để mắt theo dõi, nhưng chúng cũng chả làm gì được đối với người tù đầy uy thế mà cả chủ tướng De Courcy, chính phủ Pháp ở Paris cũng không thể không nể nang.
“Dụ Nguyễn Văn Tường” “Dụ người trong hoàng tộc” , phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa nghe, sau khi ông và không một ai không biết “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”. “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” “Dụ Nguyễn Văn Tường” được phát đi, gửi về trong cùng một ngày. Đó là ngày mùng hai, tháng sáu, Ất dậu (13.07. 1885). Điều đó đã xác quyết về quốc kế chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính, giữa “kẻ ở” với “người đi”, giữa đàm và chiến.
Bọn Pháp, nhất là những tên trùm gián điệp như giám mục Puginer, mãi đến năm năm sau, càng khẳng định về Lệnh dụ thiên hạ Cần vương :
“Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng ba chục ngàn (30.000) giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng hai tháng và hơn một ngàn (1.000) người [Pháp…] khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…” (78) .
Đó là sự khẳng định trong một bản điều trần gửi các nhà chức trách Pháp, Puginier viết vào ngày 09.03.1890. Có điều, con số ba mươi ngàn ấy là số lượng gồm cả những kẻ xu thời lẫn “tả đạo” phản quốc, chứ không phải giáo dân lương thiện! Tất cả những ai theo giặc Pháp, Puginier đều dán lên nhãn hiệu “giáo dân”! Thật sự, khá nhiều nơi, linh mục Việt và giáo dân “tả đạo” đúng nghĩa (bởi đã thực sự phản quốc!), theo lệnh các cố đạo gián điệp Pháp, hung tợn đánh phá các phủ, huyện để phục thù các quan lại Đại Nam và để cướp chính quyền! “Tả đạo” phục thù bằng cách tàn sát nhân dân kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh, và “tả đạo” cướp chính quyền khi kinh thành thất thủ là điều mà phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiên liệu. Do đó, ông đã chặn trước Caspar, De Courcy, De Champeaux, ngay vào sáng ngày hai mươi ba tháng năm máu lửa ấy (05.07. 1885). Thật sự, chiến tranh lương – giáo trên khắp Trung – Bắc Kì không thể không xảy ra, và trong thực tế đã xảy ra!
Những ngày thượng tuần tháng sáu Ất dậu (1885) bừng dậy ngút trời khí thế Cần vương! Phụ chính Nguyễn Văn Tường cùng Hoàng Hữu Thường, Phạm Hữu Dụng và vài viên tham biện khác tuy phải “đi dạo” trong sân vườn Nha Thương bạc, nhưng trong lòng họ vẫn cháy bùng lên ngọn lửa Cần vương với niềm cảm xúc hào hùng, bi tráng.
Ngoài kia, không xa lắm, dòng sông Hương bừng chói trong nắng cuối mùa hè.

Hết tệp 3
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

Khởi viết từ 07 giờ 41
sáng ngày 17.01.2003
(15.12 Nh. ngọ HB.3)
Viết đến dòng chữ này vào lúc 17 giờ 07 phút,
ngày 24.01.2003 (22.12 Nh. ngọ. HB.3).
TRẦN XUÂN AN


(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, bản dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1976, tr. 214 – 215; Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN.NSKLS), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 253 – 254.

(2) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 215.

(3) Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển 3, Nxb. ĐH. & THCN., 1985.

(4) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 550.

(5) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp. HCM. tái bản, 2001, tr. 533.

(6) Dẫn theo tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kì (chủ yếu do Puginier viết) trong: Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, bài “Cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục của nhà nước phong kiến Việt Nam những năm 80 thế kỉ XIX”, tham luận của GS. Nguyễn Văn Kiệm, kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử, ĐHSP. TP. HCM., 20.6.1996, tr. 11, 14. Xin xem trích dẫn theo chú thích (14) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(7) ĐNTL.CB., tập 30, sđd., 1974, tr. 162 – 163 (tháng giêng nguyệt lịch, Ất sửu, 1865); tập 31, sđd., 1974, tr. 49 (tháng bảy nguyệt lịch, Bính dần, 1866).

(8) VN.NSKLS, tập 1, Nxb. KHXH., sđd., 1981, tr. 203.

(9) Xem: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản in vi tính, 2001 (chưa có điều kiện xuất bản rộng rãi).

(10) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 28. Cần khẳng định thật rõ ràng và mạnh mẽ: “làm ngầm” (thủ tiêu) là một việc làm cho dẫu với mục đích chính nghĩa thì cũng mờ ám. Đó là biện pháp đối phó ở thời đại thế giới bị bưng bít thông tin, bọn thực dân, “tả đạo” phi nghĩa cầm quyền ở các nước Âu Mỹ đang thắng thế trên toàn cầu, hoàn toàn thao túng sách báo tuyên truyền, kích động giáo dân ở chính quốc. Trong giai đoạn diễn ra cuộc bùng nổ thông tin hiện nay, nhân dân các nước trên thế giới không còn bị “bưng tai, bịt mắt”, bị tuyên truyền theo luận điệu kích động, nên việc nhận định, đánh giá biện pháp “làm ngầm” (thủ tiêu) thực hiện trong thời điểm hiện tại phải được căn cứ trên một tiêu chí khác hẳn. Nói rõ hơn, nếu hiện nay, chế độ nhà nước nào còn thực hiện biện pháp “làm ngầm” (thủ tiêu), phải bị cực lực lên án! Không thể biện minh!

(11) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 216.

(12) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 545.

(13) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút.), bài “Các gia đình thế gia vọng tộc ở nước Nam: ngài Nguyễn Hữu Độ” của L. Sogny, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, tập XI (1924), Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 262 – 263.

(14) Xem chú thích (6) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(15) Gosselin, L’Empire d’Annam, dẫn theo: Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, tr. 59; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549. Về ba cuốn sách này, cũng như các cuốn sách tham khảo khác, tôi đã có dịp phê phán trong khi tiếp thu (theo tinh thần nghiên cứu khoa học).

(16) Trích nguyên văn Phan Trần Chúc, VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58.

(17) Gosselin, L’Empire d’Annam, dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549.

(18) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58.

(19) Dẫn theo: Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn (CTN.), Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 95.

(20) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 59; CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549.

(21) ĐNTL.CB., tập 37, sđd., 1977, tr. 171 – 172.

(22) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 216.

(23) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 217.

(24) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 218.

(25) Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp.HCM., 1993, tr. 480 – 481.

(26) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 209.

(27) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219.

(28) VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 62; VN.NSKLS, tập 1, Nxb. KHXH., sđd., 1981, tr. 255.

(29) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 95 – 96.

(30) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 504 – 505. Về vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), ở tập I, bộ truyện kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này, tôi đã minh định: Quang Trung và phong trào Tây Sơn là lực lượng đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử rất bức thiết của dân tộc ta thuở bấy giờ (thống nhất Đàng Trong – Đàng Ngoài, đánh đổ cả Nguyễn lẫn Trịnh). Có một điểm rất tiếc là về gốc gác xa đời (gốc Tàu) của Quang Trung. Vì lí do đó, trong nhân dân ta bấy giờ, có nhiều người không ủng hộ. Mặt khác, lại có một bộ phận nhân dân nhớ ơn chúa Nguyễn về công lao khai hoang, mở đất. Ca dao Nam Bộ có hai câu hầu như ai cũng biết: “Lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra”. Xin nêu ra để tham khảo thêm.

(31) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(32) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225 – 226.

(33) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219 – 220. Xin xem đoạn trích theo kí hiệu chú thích (39) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(34) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 96 – 97.

(35) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 551: Việc Bà Từ Dũ cử người tặng quà cho De Courcy, y không nhận, là diễn ra sau cuộc hội đàm này, chứ không phải cùng một lúc.

(36) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 8.

(37) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 96.

(38) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 97.

(39) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219 – 220.

(40) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 97 – 98.

(41) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang, tập 1, sách in vi tính, 247 – 248, 282 – 283: Sau khi về châu Âu, vào năm 1907, giám mục Caspar liền sang yết kiến giáo hoàng La Mã Piô X [năm ở ngôi: 1903 – 1914] (hẳn để báo cáo quá trình công tác!), rồi mới về nghỉ hưu tại quê quán (Obernai, miền Alsace) ở Pháp. Ông ta chết vào năm 1917, thọ 75 tuổi (có 27 năm lãnh đạo giáo phận Huế).

(42) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 65; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 552.

(43) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 98.

(44) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 220.

(45) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 256.

(46) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 197.

(47) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 220 – 221.

(48) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 99 – 100.

(49) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 100 – 101.

(50) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(51) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 221, 230 . “Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường đem lão cung và xe vua ra [khỏi] thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: “Lui cùng quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân”” (sđd., tr. 230). Xem thêm: Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca (HTC.), (Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, chú thích…), Nxb. Tân Việt, 1950, tr. 39 – 40: “Thấy người trước đón lên đường, Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”, Phán rằng: “Sự đã dường này, Ngươi tua [:lo; nên ] ở lại, ngõ rày xử phân”,Vâng lời Tường mới lui chân, Giá ra khỏi cửa, dân lần dõi theo”. Và ở “Dậu Tuất niên gian phong hỏa kí sự” (trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc”[!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517): “Thuyết – Tường sanh sự sự sanh [?!], Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng, Cùng nhau bàn luận rứa răng, Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu, Khéo làm chước nhiệm [nhịn?] mưu sâu, Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình”. Cho dù với cách diễn đạt theo quan điểm thuộc chính kiến nào đi nữa, hai đoạn thơ trên cũng phản ánh về một sự thật lịch sử!

(52) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(53) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 230. Xem chú thích (51) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(54) Tôi hư cấu nội dung bức thư này xuyên qua các sự kiện lịch sử đã được ghi nhận trong ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976.

(55) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(56) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221 – 222.

(57) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(58) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(59) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế” của H. Le Marchant de Trigon, Đặng Như Tùng dịch, Tôn Thất Hanh hiệu đính, Nhị Xuyên, Lê Văn biên tập, tập IV (1917), Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273: “Than ôi, ngay ngày hôm sau [tức là ngày kế tiếp ngày 29.8.1875], những thủ đoạn phá rối có hệ thống [:đấu tranh chống Pháp bằng ngọai giao…] của Nguyễn Văn Tường kéo dài cho đến ngày chiếm cảng Thuận An [8.1883], và còn về sau này, cho đến khi đày kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, và trong thời gian [bị lưu đày] đó, [Nguyễn Văn Tường] chẳng chịu hiểu biết gì cũng chẳng chịu quên gì” (lưu ý cách diễn đạt đậm màu sắc thực dân của H. Le Marchant de Trigon).

(60) Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn khá xác thực, chỉ để tham khảo thêm:

“Đô thành, quan Quận giao hòa
Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây
Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:
“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy
Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn
Người mà phiêu lạc núi non
Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu
Tây phiên thúc thủ thụ đầu
Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành
Tây phiên trở lại Tây thành
Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi
Họ không cho đâm nhánh mọc chồi
Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”
Quan Quận khi ấy nói qua
Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:
“…”
Quan một cho đến quan ba
Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!
Đòi triệu các quan tỉnh trở về
Sự tình y ước cho ra bề đục trong
Tin thì tin, dạ còn phòng
Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”
.

Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”, trá hàng [và có thể nói thêm, là vấn đề “Nam Việt”! (Bắc Việt đã bị “bảo hộ” theo chính sách thực dân “chia để trị”)].
Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết. Về vấn đề này, xin xem thêm: Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Del-vaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 54: “Triều đình thấy nguy cơ mất độc lập, đã bàn bạc ngầm các phương kế để chận đứng sự lấn chiếm của Pháp. […] Tôn Thất Thuyết, […] Nguyễn Văn Tường đã lôi kéo Hội đồng Cơ mật thoả thuận hai vấn đề quyết định như sau: Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng lúc tất cả giáo dân trong toàn quốc [!sic!]. Sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển Triều đình và Chính phủ đến một pháo đài kiên cố, và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm. Đó chính là Cam Lộ hay đúng hơn là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết lực lượng ái quốc, là nơi Triều đình sẽ tạm dừng chân. Các chuẩn bị kì quặc để hình thành do những kỉ niệm quá khứ [của Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ], thảm hại thay, lại đã được thực hiện một phần lớn”. (Aldophe Delveaux); VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 554: “Tôn Thất Thuyết […] làm hịch Cần vương truyền đi khắp nơi […]. Sách tây chép rằng […] dân bên đạo phải tám ông cố và hơn hai vạn người bị giết” (Trần Trọng Kim). Các cố đạo Pháp thổi phồng quá đáng, chỉ nhằm mục đích kích động giáo dân ở “mẫu quốc” (!) và biện minh cho sự xâm lược (cướp nước, bóc lột và nô dịch) của thực dân Pháp!

(61) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 237.

(62) Inrasara (sưu tầm, phiên dịch, giới thiệu), Văn học Chăm II – Trường ca (VHC.II. TC.), trong đó có trường ca [ariya] “Po Parơng” (Trường ca “Quan lớn Pháp”) do Hơp Ai viết, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1996, tr. 171 – 173.

(63) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(64) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222 – 223.

(65) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(66) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(67) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

(70) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224 – 225. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh (ĐHSP. Huế), trong các tập châu bản Nguyễn Văn Tường, có một bản sớ phụ chính họ Nguyễn phân trần với Tam Cung về biện pháp cuối cùng: “… Lấy mặt cười vui để đối phó bàn tay hung bạo, mở tấm chân chành để thông suốt đá cứng, tuy [với biện pháp đó] không thể lấy làm mạnh, mà chỉ có thể làm kế lâu dài…” (Kỉ yếu HNKHLS., ĐHSP. Tp. HCM., 20.06.1996, tr. 41). Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc còn trích dẫn châu bản: “… Huống nay sức kiệt của mòn, hai kì rách nát, sau khi đã bôn bá lưu li, mà nói là có thể mưu khôi phục, như thế khác gì kẹp núi mà vượt biển, có lí lẽ đúng chăng?” ; “… dời kho tàng, đặt phòng thủ cũng vì bởi cái lo chưa phát khởi mà dự phòng, không phải lấy điều đó mà mưu tính với người [:giặc Pháp]”. Vẫn theo Trần Viết Ngạc, công việc Cần vương đã chuẩn bị từ 1883, nhưng đến tháng 07.1885, chưa phải là lúc để nổ ra trận chiến ngay tại kinh đô, mà thời, thế, cơ bấy giờ bắt buộc phải có thêm một quãng thời gian hòa hoãn, cầm cự để tích cực chuẩn bị thời, thế, cơ mới (tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 56). Phát biểu trong hội thảo 02.07.2002, sau khi dịch giả Trần Đại Vinh đọc toàn văn bản sớ mà Trần Viết Ngạc trích dẫn nêu trên (có đoạn Nguyễn Văn Tường phê phán cả sự nóng vội của Tôn Thất Thuyết…), nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã (ĐH. Hùng Vương Tp.HCM.) cho rằng đó là một cách nói của Nguyễn Văn Tường với mục đích đối phó, tạo sự tin tưởng ở Pháp, ở phe chủ “hòa” nhằm củng cố lại triều đình, để thực hiện sách lược “hai mặt”. Trong tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 59 – 83, tôi đã có bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”, viết về vấn đề này. Mong rằng toàn bộ châu bản liên quan đến Nguyễn Văn Tường sẽ được giám định khoa học thực nghiệm để chính thức công bố bằng xuất bản. Xin xem lại bản sớ khác trích dẫn từ ĐNTL.CB. và đoạn truyện kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tôi theo chú thích này.

(71) VHN., Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, sđd., tr. 81.

(72) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 77; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 552 – 553.

(73) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(74) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(75) Phan Canh, Đào Đức Chương, Thơ ca Việt Nam thời Cần vương (TCVNTCV.), bài Lệnh dụ Thiên hạ cần vương, bản dịch của Lê Thước, Nxb. Văn Học, 1997, tr. 16. Xem thêm: Trung – Pháp chiến tranh tư liệu, tập 7; Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, với bản dịch của Chu Thiên Hoàng Minh Giám.

(76) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225 – 226.

(77) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 226 – 228.

(78) Dẫn theo tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kì (chủ yếu do Puginier viết): Xem chú thích (6) của truyện kí thứ mười hai này.

Chú thích xong lúc 18 giờ kém 05 phút,
ngày 20.02.2003 (20.01 Quý mùi HB.3).


TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 3
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

Xin xem tiếp tệp 4
(Phân đoạn 2 truyện kí thứ 12)
thuộc bộ sách “PCĐT. NVT.”.

1 Comments:

  • Unable to open Binance wallet iOS & android|Binance Support Number
    Are you unable to open Binance wallet app in iOS and Android? If yes, don’t waste your precious time in looking for the best suitable solution rather take your phone and dial Binance Support Number +1-800-665-6722, and take fruitful assistance from thee skilled team in split seconds. The skilled team of advisors is known for their outstanding services and is the best way to get rid of all sort of queries in minimal time.
    For more info: https://www.cryptophonesupport.com/exchange/binance/

    By Blogger Peter parker, at 1:15 AM  

Post a Comment

<< Home