TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap IV B)

Tuesday, December 20, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập IV B 4)

Tệp 4 – Tập IV Blog B
(phân đoạn 1, truyện kí thứ 12)


TRẦN XUÂN AN

KINH ĐÔ QUẬT KHỞI
VÀ QUỐC KẾ CHIA TÁCH – PHỐI HỢP TRIỀU CHÍNH


Truyện kí thứ mười hai
(phân đoạn 2)

14

“Ba Cung [Tam Cung: Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)] [ra] dụ chỉ, chuẩn phái người đến hành tại [ở Tân Sở] tâu xin ngự giá [:xe vua] hồi loan [về Huế]” (79)
Lúc Tam Cung về đến Huế, De Courcy, De Champeaux và cả cố đạo Caspar hết sức âu lo và cũng rất đỗi vui mừng. Chúng âu lo là biết đâu, Tam Cung, trong đó đứng đầu là Từ Dũ, bị bức quá hoá liều, bỗng chốc lại cương quyết thì thật mệt cho chúng. Chúng mừng vui vì không thể không hi vọng thái hoàng thái hậu Từ Dũ ấy sẽ “khôn ra mà ngoan ngoãn nghe lời (!)” chúng. Trong dự định, chúng sẽ gợi ý để bà nhờ ai đó viết các bản dụ, hoặc nếu cần, chúng sẽ nhờ linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư viết thay, thái hoàng thái hậu Từ Dũ chỉ cần đứng tên là đủ.
Hôm chuẩn bị lên Khiêm lăng yết kiến Tam Cung, De Champeaux thưa với tên đô thống của y:
- Trong những người vợ của vua Tự Đức, vị vua đã quá cố, tôi có biết danh một người từ hai năm nay thường viết các bản dụ thay cho thái hoàng thái hậu Từ Dũ, bà mẹ của ông vua ấy. Người đó là bà Nguyễn Nhược thị Bích (80), con gái của một viên quan tên là Nguyễn Nhược Sơn hay Nguyễn Nhược Sâm gì đấy. Bà ta người Ninh Thuận, thuộc tỉnh Bình Thuận. Ta có thể sẽ buộc cả bà Từ Dũ lẫn bà Nguyễn Nhược thị này phải theo ý ta.
- Đúng vậy! Tôi đã bảo rồi cơ mà! Phải nắm cho được Tam Cung, và nếu quả là có một bà Nguyễn Nhược thị như vậy, thì cũng nắm luôn. Thế là nắm được nước Đại Nam này. Vấn đề là ép buộc, thuyết phục họ như thế nào!
De Champeaux đã làm khâm sứ tại kinh đô Huế mấy lần, nên y rất rành rõi, ít ra cũng như một người dân Huế lâu năm sống tại đây.

“Năm [Tự Đức] ba mươi sáu [1883], Dực Tông Anh hoàng đế lên chầu trời, vâng ý chỉ Hai Cung, sắc dụ đều cho tay [Nguyễn Nhược] thị ấy làm. Năm Hàm Nghi thứ nhất, tháng năm [Ất dậu, 1885], kinh thành có việc, [Nguyễn Nhược thị Bích] đi theo Hai Cung đi Quảng Trị, có [viết] bài hát quốc âm “Xe vua vào đất Thục” [“Hạnh Thục ca”, nhan đề mượn điển tích Đường Minh Hoàng tránh loạn đi vào Thục]. Ngày hai xe [của Hai Cung] cùng về, các sắc phụng chiếu thư, [Nguyễn Nhược thị Bích] cầm bút viết xong ngay, việc gì cũng xứng chỉ” (80) (*).

Từ hai năm trước và đặc biệt là từ ngày này, tất thảy mọi bản dụ của Tam Cung, hay chỉ riêng Từ Dũ thái hoàng thái hậu, đều do một tay bà Nguyễn Nhược thị Bích viết sau khi nhận khẩu dụ của ba bậc mẫu nghi thiên hạ ấy. Cũng từ ngày này, nhất là hôm sau, khi Thọ Xuân vương Miên Định được thái hoàng thái hậu Từ Dũ chuẩn làm nhiếp chính, quyền giữ việc nước như một nguyên thủ giám quốc, phụ chính Nguyễn Văn Tường chỉ còn ngồi lặng lẽ lắng nghe những thông tin từ các tỉnh dội về Nha Thương bạc. Công việc chính của ông là bí mật liên hệ với phong trào Cần vương, mỗi khi tránh được những đôi mắt cú vọ của bọn Pháp, tuy mặt khác, ông vẫn làm việc như một đại thần đầu triều.
Thật ra, trong thực tế, những bản dụ của thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Tam Cung, nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định đều không tác động gì. Tất cả sĩ phu, hầu hết các quan chức ở các tỉnh, phủ, huyện đều bí mật hành động theo mật dụ, nhất là Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương mà vua Hàm Nghi và phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết đã tuyên cáo.
Phong trào Cần vương đã vang động trên khắp Đất nước, từ Bình Thuận đến Cao Bằng!
“Con tin” hay “người tù” Nguyễn Văn Tường đã chấp nhận “thế hi sinh” để cứu vãn triều đình nhà Nguyễn, vẫn cố gắng bí mật tiến hành kế sách chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính với phụ chính Tôn Thất Thuyết. Do đó, “hiệu lệnh chưa thống nhất” (81), không khỏi bị chuệch choạc, thậm chí phủ định lẫn nhau.
Trong tâm trạng khắc khoải với nỗi đau lòng, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn không khỏi buồn cười khi biết chính thái hoàng thái hậu Từ Dũ và nhiếp chính Miên Định ra các bản dụ trừng phạt, theo kiểu để đối phó một cách “qua loa, chiếu lệ”, cả vợ con Tôn Thất Thuyết và vợ con các quan theo phù ngự giá khác, trong khi những người thân yêu ấy của vị đệ nhị phụ chính và của họ đã lên rừng, sống chết với ông và với họ! Phụ chính Nguyễn Văn Tường lẫn phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng đều thừa biết rằng, bọn Pháp đang làm sức ép, buộc phải ra những bản dụ trừng trị Tôn Thất Thuyết và các vị cùng phò giá như thế, bởi lẽ, không ai khác hơn, chính Tam Cung đã ra lệnh dụ cho đại thần Tôn Thất Thuyết: “Ngày Ất mão [hai mươi ba, tháng năm, Ất dậu], kinh thành có việc. Tôn Thất Thuyết kèm vua, vâng mệnh Ba Cung, ngự giá chạy ra miền Bắc” (39) . Bản thân phụ chính Tôn Thất Thuyết hồi còn ở tại triều đình Huế, trước cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ, đã thừa biết sự thể như thế và cách đối phó bằng “mật dụ chính thức” kèm với “hư dụ công khai” , chẳng hạn như vụ bố chánh Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp cuối tháng tư vừa rồi!
Phụ chính Nguyễn Văn Tường rất thấu hiểu tình trạng không thể không phần nào hỗn loạn, hoang mang, quờ quạng bên cạnh tính tích cực, hữu hiệu là chủ yếu của quốc kế chia tách nhưng phối hợp triều chính hiện tại. Đó là tình trạng tạm thời một khi “hiệu lệnh chưa thống nhất”. Đây quả là một thời điểm lịch sử quá đặc biệt, xưa nay chưa từng có, bởi các sách lược cổ điển là chiến, hoà, thủ đều không thể thực hiện được mà phải quyền (quyền biến, quyền nghi)! Quyền biến, quyền nghi là sự linh hoạt “dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện cụ thể bằng quốc kế chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính một cách mật thiết. Sự linh hoạt ấy không phải là vô nguyên tắc, mà phải lấy cái bất biến (thân dân, ái quốc, trung quân, ý chí quét sạch quân xâm lược, bọn bán nước) để ứng xử với vạn sự biến hoá, vạn sự chuyển biến của tình hình Đất nước, mà chủ yếu là do tương quan lực lượng giữa ta (Đại Nam) với địch (Pháp, “tả đạo”), trong điều kiện lịch sử – cụ thể (không thể chiến, không thể hoà, không thể thủ).

“Các vị đại thần mưu quốc tìm kế giữ yên xã tắc, bảo vệ triều đình: [Nếu] cứ cúi đầu nó bảo gì nghe nấy, ngồi yên để mất cơ hội thì sao bằng dò xem ý chúng muốn hành động mà đối phó trước? Ví thử việc chẳng chịu lòng, thì còn có thể làm như ngày nay để mưu tính việc về sau cho ổn” (75).
“Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám” (76).
“Huân thần [:Nguyễn Văn Tường] tâm sự như thế, cáng đáng như thế, [huân thần ấy] thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được” (77)
.

Nhưng đâu phải những tên thực dân quân phiệt De Courcy, Prudhomme, thực dân cáo già De Champeaux, Caspar, Hamelin không biết làm sức ép!
Sức ép của bọn giặc càng lúc càng tăng là đằng khác! Tất cả mọi cái đều quyết định bởi bạo lực quân sự, ai mạnh hơn ai! Sức ép của chúng càng tăng thì nỗi khổ tâm của phụ chính Nguyễn Văn Tường càng lớn. Là một đại thần đầu triều, ông không thể đổ tội cho Tam Cung, ba bà lão vốn chỉ suốt đời sống trong cung cấm, không thể đổ tội cho Thọ Xuân vương Miên Định, một cụ già tám mươi tuổi! Vinh quang và tủi nhục, ông xin nhận hết. Có điều, ai cũng hiểu rằng, chính Tam Cung và Miên Định đôi khi nhân nhượng giặc mà ép buộc cả phụ chính Nguyễn Văn Tường!
Phụ chính Nguyễn Văn Tường như một người được chủ nhà quá cố (vua Tự Đức), khi hấp hối giao cho ông trọng trách chống đỡ giúp ngôi nhà ba gian (Bắc, Trung, Nam), một gian (Nam Kì) đã bị cướp đứt, hai gian còn lại (đang thuộc triều đình nhà Nguyễn) cũng sắp sụp đổ; và ông đã nỗ lực hết mình để chống đỡ, nhưng không đủ tư cách như một người có chủ quyền sở hữu ngôi nhà ấy, để có thể quyết định phá đổ nó đi (tiêu thổ), rồi vào rừng (kháng chiến), tìm gỗ quý (chiến sĩ đã qua thử thách) về dựng lại ngôi nhà mới. Ông chỉ đủ tư cách để duy trì ngôi nhà sắp sụp đổ ấy cho đến lúc sức cùng lực kiệt trong tinh thần phụ trách của mình, ít ra là cố giữ được nguyên trạng (1874 – 1883). Đó cũng là tâm trạng của ông trước những người có tư cách thừa kế quyền sở hữu phong kiến về ngôi nhà (Đại Nam) ấy: vua Hàm Nghi, thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị (Trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (Học phi) và Thọ Xuân vương Miên Định.

15

“Ý chỉ Ba Cung [Tam Cung: Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)] chuẩn cho Thọ Xuân vương là Miên Định quyền coi việc nước; phàm [mọi] việc [phải] tâu suốt Ba Cung, xin chỉ tuân hành”.
[Như thế] thời [:thì] tôn nhân, đình thần cùng với khâm sứ Pháp bàn lại hoà hảo như cũ. Duy chưa rước được vua về, lòng dân không biết [hệ] thuộc vào đâu, cho nên vâng mệnh tâu chuẩn cho thân vương [Miên Định] ấy nhiếp quyền coi việc nước, [để] khiến cho thần dân thiên hạ có sự thống thuộc. Đợi ngày nào xe vua về, thân vương [Miên Định] ấy sẽ vẫn sung làm phụ chính” (82)
.

+++

“Ngày tân mùi [mùng chín, tháng sáu, Ất dậu (20.07 .1885)], xe vua ra chơi Bảo Đài, đừng đóng ở đấy:
([Bảo Đài thuộc Quảng Trị] giáp hạt Quảng Bình.
Ngày mồng năm [tháng sáu nguyệt lịch (16.07.1885)], án sát Quảng Trị là Tôn Thất Nam đi [Sơn] phòng [Tân Sở], cùng với [phụ chính Tôn Thất] Thuyết họp.
Ngày mồng bảy [tháng sáu nguyệt lịch (18.07.1885)], [phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại kèm xe vua [từ một ngôi làng gần đó] đến Sơn phòng [Tân Sở], [lại] do [:theo] [đường] xã Thuỷ Ba đến Quảng Bình [tức là đi theo hướng từ Quảng Trị] trở về phía bắc.
Ngày mồng chín [tháng sáu nguyệt lịch (20.07.1885)], đêm, dừng xe đỗ ở xã [Thuỷ Ba] ấy.
Đi lần này, bao nhiêu vàng bạc hiện trữ ở [Sơn] phòng, [phụ chính Tôn Thất Thuyết] đều cho gánh đi hết.
Sau, có tin [thám] báo nói: “Lúc bắt đầu đi, vua bèn khóc. Các người đi theo cũng lau nước mắt, rồi theo đi””) (83)
.

+++

“Ý chỉ Từ Dụ thái hoàng thái hậu lại xuống dụ cho các địa phương rước xe vua về và trị tội Tôn Thất Thuyết chuyên quyền làm bậy [!] (84):
“Dụ rằng:
“… Mới đây đô thống Pháp [De Courcy] đến nước ta, xin dâng quốc thư, làm lễ triều yết, yêu cầu Cơ mật viện đại thần cùng đi đến Sứ quán, muốn vì cho mặt ngoài [Bắc Kì] [được] bàn bạc để được cùng lòng lo tính chung nhau. Nhưng Tôn Thất Thuyết ngờ sợ không tới họp. Sau cùng bọn ấy lập mưu ngầm, không tâu vua biết và không bàn với đình thần, tự tiện dấy quân, trong thành náo loạn. Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường, tức thì đem lão cung [Từ Dụ thái hoàng thái hậu] và xe vua [Hàm Nghi] ra [khỏi] thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: “Lui cùng với quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân”. Không ngờ Tôn Thất Thuyết không chống được một cuộc thua, dám lại đón đường rước xe vua đi thành Quảng Trị. Kịp [Tôn Thất Thuyết] tiếp phái [viên Phạm Hữu Dụng] báo Nguyễn Văn Tường, nghiệp [dĩ] đã về thành, đã thương lượng với quan Pháp hoà hảo như cũ. Lão cung nghe tin rất mừng, tức thì ngày mồng năm tháng [sáu nguyệt lịch (16.07.1885)] ấy cùng với Hai Cung [hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)] trở về Khiêm cung yên đỗ. Quan Pháp cũng vì đó mà vui mừng. Và [lão cung] đã chuẩn cho Thọ Xuân vương [Miên Định] quyền giữ việc nước để đợi hoàng đế hồi loan. Nguyễn Văn Tường vẫn sung coi sự vụ ở Cơ mật viện, và lục bộ, đường thuộc ở các bộ, cũng đều làm việc như cũ. Nhiều lần uỷ phái người đi rước xe vua. Tôn Thất Thuyết lại ép cõng vua do đường núi đi Quảng Bình ra Bắc. Vua khóc lóc phải theo, rất điều đau xót. Vả miếu xã tôn trọng, trong thuở Dực tông Anh hoàng đế [Tự Đức] hấp hối, cũng lấy sự đừng nên, kinh động làm lo. Tôn Thất Thuyết là người trong khánh phổ, ơn sủng sâu dày, không hay thể theo lời dặn, càng động lòng riêng, tự làm cho mình thoát hoạ, mà không nghĩ đến tôn xã trăm năm và ức vạn sinh linh, tự dám bỏ đi, lại lấy tiền bạc của Nhà nước. Như thế là làm nhầm cho nước, là người ác nhất thiên hạ vậy. Ai cũng có thể giết được… […] …”” (84).
“[…] Dụ đem niêm yết khiến đều chu tri [:biết rõ, biết trọn] (84)
.

+++

“[Tam Cung, nhiếp chính lại ra lệnh dụ] tịch thu hết gia sản nhà Tôn Thất Thuyết, nhà Phạm Thận Duật và bắt cả gia thuộc (cha con, anh em, vợ con), giao giam chờ xét.
(Khi ấy mẹ, vợ, và con của [phụ chính Tôn Thất] Thuyết là [Tôn Thất] Đàm, [Tôn Thất] Hước, đều đã theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đi rồi)” (85)
.

+++

“Ngày mậu dần, lễ đại tường Điện Hoà khiêm [lăng Tự Đức]. […] Khi ấy [phụ chính Nguyễn] Văn Tường quyền sức cho Thừa Thiên phủ kính biện xôi thịt, lễ phẩm dâng tiến […]. [Từ Dũ thái hoàng thái hậu] dụ sai nhiếp chính Thọ Xuân vương, phủ thần tôn nhân cùng phụ [giúp] Nguyễn Văn Tường, khéo nói, bàn giảng [với bọn Pháp canh giữ ông, cả với bọn Pháp chiếm đóng tại lăng], đi tới kính xem, và nghiêm cấm phong toả, không cho ra vào [lăng], tiết độc [:gây ô nhiễm nơi lăng mộ]” (86) .

16

“Từ Dụ thái hoàng thái hậu dụ hỏi [phụ chính] Nguyễn Văn Tường về hiện tình phủ hạt Thừa Thiên và các địa phương Nam – Bắc, và [về] quân dân gặp nạn, ai đã chôn cất, [về] hoà nghị đã bàn định xong chửa (87).
[Từ Dụ thái hoàng thái hậu] lại dụ sai [bảo]: “Trong [triều], từ thượng thư, ngoài [tỉnh], từ [tổng] đốc, [tuần] phủ trở xuống, ai là người yếu nhát, kém cỏi, [hãy] tâu lên [để] trọng trị. Nên khởi dụng những người kì cựu như Trần Đình Túc, cho cùng làm việc”.
Tức thì [Từ Dụ thái hoàng thái hậu] duyệt xét những lời phúc [tâu] của [phụ chính Nguyễn] Văn Tường (87):

[LỜI PHÚC TÂU CỦA PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG]

[Tập tâu lược] nói:
“Ngày hai mươi ba, tháng [năm] trước [05.07.1885], có việc xảy ra. Chiều hôm ấy, thần [:Nguyễn Văn Tường] bàn với quân Pháp vào thành tạm đóng. Ngày hai mươi bốn [06.07.1885], hội đồng quan Pháp, yết thị hai nước đã hòa hảo như xưa, quan lại binh dân đều về như cũ.
Từ sau [kể] đi, thần hỏi các nơi ở ngoài: Từ ngày hai mươi ba, hai mươi bốn [05 – 06.07.1885] trở đi, những xã ở gần kinh thành, gián hoặc có bọn cướp bóc nổi lên. Đến ngày hai mươi sáu [08.07.1885], thần sức cho các viên huyện, rọâng đi tuần trập, bắt được hai, ba tên phạm, đem chính pháp ngay. Từ đấy đi, bọn côn đồ sợ có uy lẹânh của triều đình, dần phải liễm chấp. Hiện nay, [tình hình] dần được ninh thiếp, dân được yên ở. Tin tức các tỉnh Nam, Bắc, gần đây đều được cùng thông, cũng không có việc gì khác. Duy [:chỉ mỗi một, chỉ riêng một] có Lê Trung Đình [ở] tỉnh Quảng Ngãi nổi loạn, rồi cũng yên tĩnh.
Binh dân trong ngoài kinh thành bị thương, [bị] chết rất nhiều. Người bị thương đều đã lục tục về quê, còn người chết thì quan binh Pháp hoặc đốt đi, hoặc chôn cất, nay đã sạch sẽ.
Đến như điều khoản nghị hoà, quan Pháp bàn nói: “Chờ khi rước hoàng thượng hồi loan, giao trả thành trì, mới có thể bàn định được”.
Lại như quan viên trong ngoài, gián hoặc có người tài, có người không tài, vốn nên cất, bỏ. Nhưng nay ngôi lớn trong kinh chưa định, hiệu lệnh chưa thống nhất, sự thưởng phạt chưa nên vội ra, xin chờ sau sẽ làm. Và khởi dùng người cũ là việc cần kíp hiện nay, là duy Đình Túc, tuổi gần tám mươi, đi đứng thế khó khoẻ mạnh, Hoàng Tá Viêm, Vũ Trọng Bình lại bị bọn kia [:bọn Pháp] ngờ ghét, cũng khó giảng giải. Việc nhiều người ít, không biết làm sao, thần chỉ biết hết lòng, hết sức thôi.
(Việc Lê Trung Đình chép ở dưới)” (87)
.

17

“Hà – Ninh quyền tổng đốc Nguyễn Hữu Độ về kinh, bàn bạc:
Thượng thư Pháp đóng ở Hà Nội là Sinh Bích [Silvestre] gửi thư cho quyền tổng đốc An – Định [Quảng Yên – Nam Định] là Phan Đình Bình, nên đi ra sung thay chức ấy [hiện của Nguyễn Hữu Độ]. [Phan] Đình Bình tiếp thư, đi Hà Nội họp, nói: “Đem việc xin tâu chờ mệnh [lệnh chuyển bổ]” (88)
.
Vào ngày mười chín tháng sáu nguyệt lịch Ất dậu (30.07.1885), một bên là De Courcy, De Champeaux, Sil-vestre, Nguyễn Hữu Độ, một bên gồm mười lắm người, đó là Thọ Xuân vương Miên Định, Nguyễn Văn Tường và các quan tham biện, tư vụ trong Viện Cơ mật – Thương bạc, hai bên đã họp để thông qua phụ ước của “hoà” ước Giáp thân 1884. Phụ ước gồm sáu khoản, Pháp ép buộc triều đình Đại Nam chiến bại phải chấp nhận. Đó là chính sách “bảo hộ” của thực dân Pháp tại Tunysie (89):

+++ 1. Trung Kì và Bắc Kì có một chế độ “bảo hộ” gần giống nhau.
+++ 2. Lập một đạo quân do quan chức Pháp chỉ huy, nhưng do triều đình chịu tổn phí.
+++ 3. Lập ngân sách duy nhất cho cả Trung Kì – Bắc Kì.
+++ 4. Lập một Hội đồng Nội các (như Hội đồng Bộ trưởng, khác với Nội các của triều đình Đại Nam), trong đó, hễ bộ nào quan trọng thì có người Pháp tham dự cạnh thượng thư Đại Nam.
+++ 5. Triều đình Huế tuỳ theo sự đề nghị của quan kinh lược mà cử các quan hàng tỉnh (tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát) ở Bắc Kì, còn quan kinh lược thì tự mình cử quan phủ, huyện (tri phủ, tri huyện).
+++ 6. Pháp vẫn nắm quyền thương chính (hải quan), tạo tác (xây dựng, giao thông – công chánh), quân sự, ngoại giao (89).

Tên bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp tại Paris vẫn muốn chia cắt Trung Kì với Bắc Kì theo chủ trương “chia rẽ để dễ cai trị” , như “hoà” ước Giáp thân 1884, nhưng ở mức độ “bảo hộ” khủng khiếp hơn rất nhiều. Chính phủ Pháp, do tên thủ tướng Brisson cầm đầu, đồng ý theo tên bộ trưởng Bộ Chiến tranh ấy, liền điện tín qua cho De Courcy, vào ngày 13.08.1885 (ngày bốn tháng bảy Ất dậu):

+++ 1. Khâm sứ Pháp chủ toạ Hội đồng Nội các (Hội đồng Bộ trưởng) của triều đình Đại Nam.
+++ 2. Phụ chính, thượng thư Đại Nam muốn được cử ra thì phải được khâm sứ Pháp chuẩn y. Khâm sứ Pháp có quyền cách chức vô luận đại thần phụ chính hay thượng thư Đại Nam nào.
+++ 3. Chế độ “bảo hộ” ở Bắc Kì có thể được thực hiện ở những tỉnh Trung Kì, nếu khâm sứ Pháp thấy cần.
+++ 4. Triều đình Đại Nam phải chấp nhận và trả lương cho một phái bộ quân sự Pháp. Quân Nam triều sẽ không quá mười ngàn (10.000) người, và phải do người Pháp chỉ huy. Quân đội người Việt ở Bắc Kì phải biệt lập, triều đình Đại Nam ở Huế không có quyền hạn gì đối với số quân ấy (89).

Nhưng thực dân Pháp không thể áp đặt phụ ước bốn điểm đó của tên bộ trưởng Bộ Chiến tranh! Bởi ngay phụ ước sáu điểm (kiểu “bảo hộ” ở Tunysie) cũng đã khiến phong trào Cần vương bùng nổ mạnh hơn. Phụ chính Nguyễn Văn Tường phải đấu tranh trong việc đàm phán, song hành với phụ chính Tôn Thất Thuyết đang đẩy mạnh công cuộc kháng chiến: Đàm đi đôi với chiến trong sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Kháng chiến mà không đàm phán, sẽ tổn thương nhiều xương máu. Kháng chiến thất bại, sẽ dẫn đến đàm phán bất lợi. Không kháng chiến thì không đàm phán có hiệu quả. Đó là quy luật.
Chính nhờ phong trào kháng chiến Cần vương ngày càng mạnh mẽ, nên về sau, vào khoảng trung tuần tháng sáu Bính tuất (1886), ngay cả phụ ước sáu điểm ấy, tên thực dân toàn quyền Paul Bert cũng phải bãi bỏ, mặc dù triều Đồng Khánh chỉ là bù nhìn, tay sai:
“[Đồng Khánh] chuẩn cho xây dựng Nha thự Kinh lược Bắc Kì (ở Trường thi [Hương] Hà Nội).
Toàn quyền đại thần Bôn Be [Paul Bert] [thông] tư nói: Ngày tháng bảy [nguyệt lịch] năm ngoái [Ất dậu], đô thống Cô Suy [Cô Ra Xi, De Courcy] định ra sáu khoản điều ước mới, nước ta phần nhiều có thua thiệt. Nay đã đem bỏ bản ước ấy rồi” (90)
.
Như thế, tuy phụ ước sáu điểm phải bị bãi bỏ, nhưng Nha Kinh lược sứ Bắc Kì vẫn còn hoạt động!
“[Phụ chính] Nguyễn Văn Tường tâu [với Từ Dũ thái hoàng thái hậu], nói: “Trước đây [khâm] sứ Pháp Tham Bô bàn nói: “Hiện nay sự tình đã khác. [Nguyễn] Hữu Độ làm việc ở Bắc đã lâu, nên sung kinh lược Bắc Kì, nhưng [Nguyễn Hữu Độ] hãy về kinh cùng bọn tôi cùng bàn, cùng giúp việc. Dăm ba ngày việc xong, [Nguyễn Hữu Độ] lại về Hà Nội làm việc, [còn Phan] Đình Bình sẽ về kinh nhận chức”. Nay [Nguyễn] Hữu Độ vào ngày mười bảy tháng [sáu nguyệt lịch (28.07.1885)] này, hiện [y] đã về [Bắc] rồi [về Bắc vào ngày mười chín tháng sáu Ất dậu (30. 07.1885)]. [Phan] Đình Bình đi Hà [Nội] cũng chỉ quyền tạm một thời [gian] thôi” (88)
Nhức nhối nhất là Nha Kinh lược sứ Bắc Kì ấy đã bắt đầu hoạt động, ngay từ ngày mười chín tháng sáu nguyệt lịch Ất dậu (30.07.1885) này! Kẻ đứng đầu Nha Kinh lược Bắc Kì ấy là tên tay sai, xu thời, cơ hội chủ nghĩa, “xem gió chuyển buồm” Nguyễn Hữu Độ!
Phụ chính Nguyễn Văn Tường không thể chỉ chống cự lại bọn Pháp, như De Courcy, De Champeaux, Caspar, không thể chỉ đấu tranh trong thuyết phục với Từ Dũ thái hoàng thái hậu, nhiếp chính giám quốc Miên Định, ông còn phải quyết liệt vạch trần bản chất bọn tay sai, xu thời, “xem gió chuyển buồm” , “bán nước cầu vinh” như Nguyễn Hữu Độ!

18

“Ngày nhâm ngọ [hai mươi tháng sáu Ất dậu (31.07. 1885)], xa giá vua [Hàm Nghi] đi đến sách [:buôn làng] Bờ Cạn:
([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại kèm xe vua từ đồn Chấn Lào [:Trấn Lao] [khởi] đi. Ngày hai mươi tháng này thì đến sách [:bản làng]; đi một ngày nữa [thì] đến xã Mã Hạc; tới đồn [ấy] mất ba ngày đường).
Đinh Tử Lượng vâng mệnh [Từ Dũ, Miên Định] đi rước xa [giá] vua về, hiện [ông] theo kịp [đến] đó.
(Khi ấy Trương Văn Đễ cũng cùng [Đinh] Tử Lượng cùng sung phái đi đón xe vua, nhưng [Trương] Văn Đễ đi đường khác, cho nên không gặp).
Quan quân trông thấy xe vua ([bấy giờ, phụ chính Tôn Thất] Thuyết phụng xe vua, [bị] lộ ra). [Quan quân] không dám bắn súng. Chợt bị đạo quân Trần Xuân Soạn chắn ngang. [Quan quân] tản đi” (91)
.

+++

“Khi ấy đạo quân [phụ chính Tôn Thất] Thuyết gián hữu có quân tỉnh Hà Tĩnh và lính thổ Ninh Bình do tiền thứ Phạm Thận Duật mộ đến lần trước được năm trăm (500) tên. Phủ thần Quảng Trị là Trương Quang Đản [thông] tư xin phái viên đi các tỉnh hiểu [bảo] [thông] sức khẩn [cấp] làm cho khỏi quan ngại. [Triều đình] bèn vâng ý chỉ [Từ Dũ, Miên Định], lấy thự Hình bộ hữu tham tri là Nguyễn Thành Ý, Công bộ tham tri Tôn Thất Phan, biện lí Hộ bộ Võ [:Vũ] Khoa sung làm khâm sai, chia [nhau] đi các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Nghệ An, họp cùng với quân của nhiều phái viên chia đường dò đón, để rước xe vua [Hàm Nghi] trở về” (92) .

19

Trong thực tế, bọn thực dân Pháp đã hoàn toàn khuynh loát, lũng đoạn triều đình. “Đình thần nghị xử” hay “triều nghị” thực chất cũng do bọn Pháp như tên võ biền, bảo hoàng hạng nặng De Courcy, tên khâm sứ đầy thù hận và thâm độc De Champeaux, các cố đạo gián điệp cáo già như Caspar quyết định.
Quyền lực của triều đình Đại Nam chỉ còn từ Bình Thuận đến Cao Bằng, làm sao có thể lưu đày cựu đề đốc Tôn Thất Đính tận Gia Định? Cụ ông Tôn Thất Đính là người đã già nua nhưng vẫn “đi đóng ở sơn lăng [đồi núi, núi rừng], cư suất giúp tiễu” (93) (ở đấy để thúc đẩy, động viên kháng chiến diệt ngoại xâm viễn chinh và “tả đạo”) .
“[Hạ tuần tháng sáu nguyệt lịch năm Ất dậu,] an trí Tôn Thất Đính (cha Tôn Thất Thuyết, bảy mươi bốn tuổi) ở Côn Lôn [:Côn Đảo; quần đảo này đã là thuộc địa của Pháp].
([Cựu đề đốc Tôn Thất] Đính cùng với [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đi theo xe vua, rồi do [viên] tỉnh phái bắt giải về kinh. Triều nghị [!] cho [rằng: Tôn Thất] Đính lúc bình nhật đã chẳng hay biết trước con [trai], đã không hay giới trập [:trấp]; lần này lại theo [Tôn Thất] Thuyết đi đóng ở sơn lăng, cư suất giúp tiễu [trừ giặc Pháp…]. [Vậy là] chung một tội ác, nên xử tử hình. Duy tuổi già, chuẩn theo họ mẹ làm Lê Đính, giảm xuống tội lưu, cho đi an trí)” (93)
.
Ngày cựu đề đốc Tôn Thất Đính bị chính thực dân Pháp lưu đày là khoảng trong mấy hôm từ sau hai mươi tháng sáu nguyệt lịch và trước hai mươi lăm tháng ấy (từ 31.07.1885 đến 05.08.1885). Ông bị chúng áp giải xuống tàu thuỷ, chở vào Côn Đảo.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường đã rơi nước mắt, hình dung một ngày không lâu nữa, chính ông cũng sẽ bị lưu đày như thế, nếu không bị bọn Pháp xử tử hình.
Và một mảng sự thật lịch sử đau lòng khác trong thời điểm bấy giờ, về sau đã được ghi chép lại với nhãn quan bảo hoàng và chủ “hoà”, với cách đánh giá theo tiêu chí ngược (nghịch lí):
“Tịch thu gia sản của Hồ Văn Hiển và Trần Xuân Soạn, Phan Văn Mỹ, bắt cả gia thuộc giao giam chờ xét:
([Hồ] Văn Hiển tháng [năm nguyệt lịch] trước phụng giá ra [khỏi kinh] thành. [Phụ chính] Nguyễn Văn Tường phân phó cho đi hộ [tống xa] giá đến Khiêm cung tạm lánh ở đó. Rồi y lại theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết hộ [tống xa] giá đi Quảng Trị. [Sau đó] lại đi Sơn phòng [Tân Sở]. [Phụ chính] Nguyễn Văn Tường và phủ thần [Quảng Trị] Trương Quang Đản đã bốn lần viết thư dặn: “Hễ gặp quan binh, tức thì làm nội ứng, rước xe vua về”. Y bèn không nghe [theo lệnh dặn ấy].
[Trần] Xuân Soạn a dua [!]. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết khuyên [viên quan ấy] nên gây hấn [:nên chiến đấu].
[Phan] Văn Mỹ [vốn] đem tỉnh binh [:lính tỉnh] Hà Tĩnh theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết.
Cho nên gồm trị [cả ba viên ấy] về tội theo nghịch [nghịch thần!])” (94)
.
Người chép sử không phải không biết đến nỗi khổ tâm của phụ chính Nguyễn Văn Tường. Nỗi khổ tâm ấy chính vua Hàm Nghi và phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng thấu rõ: “Huân thần [:Nguyễn Văn Tường] tâm sự như thế, cáng đáng như thế, [huân thần ấy] thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được” (77)

20

Có một lần, sau khi vua Hàm Nghi đã được phụ chính Tôn Thất Thuyết đưa lên Tân Sở đã được hai hôm. Bấy giờ, ở Huế, phụ chính Nguyễn Văn Tường chỉ mong vua Hàm Nghi tuyên cáo xong “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” theo như kế hoạch hai phụ chính đã bàn. Tuy nhiên, với sức ép của Pháp một phần, một phần khác, cũng theo như kế hoạch của hai phụ chính, phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng mong nhà vua sẽ trở về Huế để tiếp tục lãnh đạo bằng mật dụ. Sự việc tuyên cáo “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” sẽ được xem như đặt bọn Pháp trước một sự đã rồi. Chúng vẫn không làm gì được, và phong trào Cần vương vẫn tiếp tục bùng nổ sau ngòi nổ chính thức ấy. Ở Huế, phụ chính Nguyễn Văn Tường không thể xác định được ngày nào vua Hàm Nghi tuyên cáo “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” . Ông viết sớ đệ trình ra nhà vua vào ngày hai mươi chín, cuối tháng năm thiếu, Ất dậu (11.07.1885):
“Thần vừa [nhận] được bức điện văn của Trương Quang Đản, cho biết rằng ba ngài hoàng thái hậu đang ngự trong hành cung tỉnh Quảng Trị. Thần đã thỉnh ba ngài về nghỉ tạm ở Khiêm cung. Quan Tổng tư lệnh Pháp [De Courcy] muốn mời bệ hạ cùng trở về một lượt với ba ngài” (95) .
Có một lần khác, khi tuần vũ Trương Quang Đản phóng ngựa vào Nha Thương bạc để xin yết kiến phụ chính đang là tù nhân Nguyễn Văn Tường. Họ cũng đi dạo trong sân vườn thuộc khuôn viên, dẫu chung quanh là những đôi mắt cú vọ của tên đại uý Schmitz và quân lính viễn chinh Pháp.
Sau một hồi thăm hỏi và bàn thảo về tình hình Đất nước hiện thời, phụ chính Nguyễn Văn Tường nói:
- Bọn De Courcy luôn hối thúc Tam Cung, Thọ Xuân vương và cả tôi viết sớ thỉnh mời đức vua Hàm Nghi về triều. Chúng bảo, nhà vua phải về mới trao trả hoàng thành. Chính phủ Brisson bên Paris cũng yêu cầu nằng nặc như thế. Theo quan tuần vũ, ta phải làm như thế nào?
Im lặng ngẫm nghĩ, một lát tuần vũ Trương Quang Đản thưa:
- Bẩm, theo tôi, ta cứ viết thêm một lần nữa sau ba lần kia. Nhưng phụ chính Tôn Thất Thuyết không muốn đưa vua về. Án sát Tôn Thất Nam khi lên Sơn phòng Quảng Trị họp, có nói điều này, tuy không nhấn mạnh, nhưng phụ chính Tôn Thất Thuyết chỉ lắc đầu. Kế sách chia tách, phối hợp vẫn được ông ấy duy trì, thực hiện, trừ điều đó.
- Cũng đúng thôi. Nếu có nhà vua ở Sơn phòng, những bản dụ sẽ có trọng lượng hơn. Sĩ dân, quan chức sẽ không còn ngại gì mà không khởi nghĩa. Nhưng tôi đã bàn với phụ chính Tôn Thất Thuyết từ lâu, là vua chỉ cần tuyên cáo “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” xong là đủ để sĩ dân, quan chức vin tựa vào đó, để thu lương, tuyển binh. Sau đó, là sẽ lãnh đạo bằng mật dụ. Thế mới là lưỡng toàn. Triều đình không thể rời Huế tất cả, kinh thành không thể bỏ trống, bởi lẽ bọn Pháp không lập vua Lê hậu duệ thì cũng dựng lên vua quan thuộc nhà Nguyễn nhưng chỉ là bù nhìn, do chúng hoàn toàn tuyển lựa. Tên De Champeaux, Caspar định lập Kiên Giang hầu Ưng Kỹ (hoàng tử thứ hai của tiên đế Tự Đức)! Quốc kế chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính không thể vi phạm luật cổ điển truyền thống là một bầu trời không thể có hai mặt trời, một nước không thể có hai vua! Tóm lại, quan điểm của tôi là vẫn phải rước vua Hàm Nghi về, triều đình tạm thời chịu “thoả hiệp” với Pháp, còn lực lượng kháng chiến vẫn do phụ chính Tôn Thất Thuyết lãnh đạo. Chức năng, nhiệm vụ của phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng như bình Tây đại nguyên soái Trương Định ở Nam Kì trước đây vậy, nhưng ở quy mô lớn hơn, trường kì bền bỉ hơn, với sự chi viện bí mật, thường xuyên, liên tục về vũ khí, quân nhu. Tình hình hiện nay phải đi đến quyết sách như thế. Không chiến thì không đàm được. Không chiến thì triều đình tồn tại chỉ như lũ bù nhìn hình rơm mà thôi. Phải chiến cho bọn thực dân viễn chinh, thực dân cố đạo mỏi mệt, hao tổn các mặt, để trước mắt chúng chùn tay, không dám lấn ép, rồi rốt cuộc chúng phải buông bỏ mà về nước… Tất nhiên phải chiến nhưng không cậy thành cao hào sâu. Với súng đạn của chúng, thành cao hào sâu cũng thật khó giữ. Trước đây, Tân Sở chỉ là tị địa của hoàng cung… Các sơn phòng là trại đóng quân… Chiến thuật, chiến lược vẫn là lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đoản binh chống trường trận… Tôi đã nói với phụ chính Tôn Thất Thuyết nhiều lần, ông ấy đã đồng ý, không hiểu vì sao như thế…
Tuần vũ Trương Quang Đản nói nhanh với âm lượng nhỏ, vừa đủ hai người nghe:
- Tôi nghe tin phụ chính Tôn Thất Thuyết đã sang Trung Hoa cầu viện rồi. Còn vua Hàm Nghi do hai người con của phụ chính ấy chăm lo, phụng sự. Nhưng hẳn là tin thất thiệt… Để dập tắt phong trào Cần vương, bọn Pháp còn tung tin đức vua Hàm Nghi đã băng hà vì sốt rét rừng nữa kia…
- Tôi và Tam Cung có biết. Bọn Pháp tung tin thất thiệt đó, gây rúng động trong sĩ dân, cũng khiến tôi và Tam Cung choáng váng. May mắn thay là long thể vua Hàm Nghi vẫn an khang. Nhưng tin quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa, quả thật tôi chưa nhận được tin ấy. Hẳn chưa đúng đâu. Có thể nói chắc chắn là sai. Nhưng nếu có như thế thì cũng có điểm hợp lí, bởi phụ chính Tôn thất Thuyết có đưa vua Hàm Nghi sang Tàu, thì bọn Pháp cũng bắt đưa về nước ta mà thôi! Thậm chí, theo hiệp ước Thiên Tân, chính nhà Thanh lại bắt giúp cho bọn Pháp nữa là đằng khác! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cố nén lại nỗi đau xót, ông không thể nói được nữa vì uất nghẹn –.
Một lúc khá lâu, phụ chính Nguyễn Văn Tường lại bảo:
- Quan tuần vũ thử suy nghĩ về kế sách tôi vừa nói xem sao, và phải đặt trong tình thế nước ta, bối cảnh chung của các châu Á Tế Á, Mỹ Lợi Kiên, Úc Đại Lợi, A Phi Lị Gia hiện nay, nhất là khi Trung Hoa nhà Thanh đã đầu hàng, kí kết hiệp ước Thiên Tân hồi cuối tháng tư Ất dậu vừa rồi, còn phía Xiêm, Lào, cũng đã bí đường!
- Lâu nay tôi đã có ít nhiều suy nghĩ về quốc kế đó. Về việc phụ chính Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa nhà Thanh, quả thật tôi có nghe nói phong thanh. Nhưng bây giờ mới biết là ông ấy vẫn còn quanh quẩn trên sơn phòng, thượng đạo Quảng Trị, Quảng Bình và vùng giáp giới Lào.
Hai người im lặng bước trong sân vườn khá râm mát. Cả hai người đều suy nghĩ, không nói gì.
Tiếng quan phụ chính Nguyễn Văn Tường lại khẽ cất lên:
- Điều phấn khởi nhất là vua Hàm Nghi, phụ chính Tôn Thất Thuyết phát động được phong trào Cần vương một cách rất khí thế và rộng khắp.
- Ai cũng biết là, trên Tân Sở ấy, quyết định cuối cùng chỉ do phụ chính Tôn Thất Thuyết mà thôi, mặc dù vua Hàm Nghi cũng chan chứa lòng yêu nước. – Tuần vũ Trương Quang Đản lại nói như tự nhủ –. Vâng, một nước không thể có hai vua… Bọn Pháp định sẽ đưa Kiên Giang quận công Ưng Kỹ lên ngôi!
Phụ chính Nguyễn Văn Tường chợt tắt nụ cười, thở dài:
- Tình hình bi đát quá thì cũng phải đành thế! Chính lúc bọn Pháp tung tin thất thiệt, rằng vua Hàm Nghi bị sốt rét rừng và đã băng hà, tôi và Tam Cung cũng suýt chấp nhận tôn lập hoàng tử Ưng Kỹ, vì không còn ai trong diện có thể tôn lập. Tuy nhiên, đến giờ khắc này, mọi người đều biết chắc vua Hàn Nghi vẫn còn khoẻ mạnh. Đó là cả một niềm vui mừng lớn! Và dĩ nhiên, một nước không thể có hai vua. Đúng như quan tuần vũ nói… Một nước có hai vua, tình hình sẽ khốc liệt, như Lê – Mạc, thời Nam – Bắc triều, như họ Trịnh ở Đàng Ngoài – nhà Nguyễn bản triều ở Đàng Trong, những thuở phân tranh… Rất đau lòng! Nhưng… Bọn Pháp cứ thúc ép tôi và Tam Cung tôn lập Ưng Kỹ! Ưng Kỹ là người như thế nào, tiên đế Tự Đức đã nhận xét một cách xác đáng. Không thể theo ý đồ tôn lập Ưng Kỹ của bọn Pháp được! Mặc chúng thúc ép! Chẳng lẽ ta thúc thủ sao?(*)… Quyết không đầu hàng giặc, không bó tay trước tình huống gay go, bế tắc… Lúc này, phải làm sao đập tan những cuộc phục thù, cướp chính quyền của bọn “tả đạo” ở các tỉnh, phủ, huyện. Những nơi nào lực lượng Cần vương mạnh, các quan chức của triều đình nên giả vờ bắn chỉ thiên qua loa rồi trao thành trì cho họ, còn các quan ấy tạm ẩn trú. Như thế, có nghĩa là, để trao toàn quyền cho lực lượng Cần vương “sát tả”, nếu chúng lộng hành… Bằng bất cứ giá nào cũng phải đập tan những cuộc phục thù, cướp chính quyền do “tả đạo” tổ chức! Phải cố gắng ra sức… Chắc cũng chẳng còn bao nhiêu ngày nữa, bọn Pháp sẽ lưu đày tôi như cụ cựu đề đốc Tôn Thất Đính mà thôi! Bọn Pháp đang canh gác quanh đây dày đặc… Không thoát được…
- Vâng, tôi sẽ cố sức… Quan phụ chính yên tâm.
Hai vị quan, phụ chính và tuần vũ, ngồi trên băng ghế đá, thứ đá lấy từ Thanh Hoá, quen gọi tắt là đá Thanh, giữa sân vườn rợp hoa lá của Nha Thương bạc, lặng nhìn dòng sông Hương lấp lánh sáng qua các kẽ lá trên hàng giậu chè tàu.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường khẽ bảo tuần vũ Quảng Trị Trương Quang Đản:
- Những ngày gần đây, sau cuộc kinh đô quật khởi, tôi có viết một bài thơ, lấy tên là “Giải triều” (chia tách triều chính) . Tôi đọc để quan tuần vũ nghe, xem ra sao.

“Tam thập niên lai phí kỉ kinh
Vô đoan dạ bán bách sầu sinh
Kì khai tam sắc, vân lôi biến
Già thính song xuy, kê khuyển kinh
Sơn kính vạn trùng thương thuý liễn
Thần tâm nhất dạng luyến đan đình
Thị phi nhiên phó thiên thu hậu
Xã tắc quân vương, thục trọng khinh?” (96)

Ba chục năm qua phí trí mình!
Nửa đêm, gian tả ép buồn sinh
Cờ chia ra khoảnh; mây giông nổ
Kẹp xiết theo roi; gà chó kinh
Núi biếc vạn trùng thương kiệu Ngự
Lòng son một thể luyến sân Đình
Phải, chăng, xin gửi nghìn thu luận
Theo nước – phò vua, đâu trọng, khinh? (96)

Gươm phí bao năm, mấy bút mòn
Nửa khuya, vô cớ ép bùng hờn
“Tam tài”, cờ xổ; giông quyền sấm
Roi cặp, kẹp tra; chó rủn hồn
Đường núi vạn trùng lo kiệu biếc
Lòng tôi một dạng giữ sân son
Đúng, sai, ấy gửi nghìn sau luận
Nhẹ? Nặng? Phò vua? Luyến nước non? (96)


Nha Thương bạc đã thành chốn lao tù cho một tù nhân vốn đang là phụ chính đại thần. Nơi đây, không thể chuyển trao giấy bút, nên không còn cách nào khác, tuần vũ Trương Quang Đản phải học thuộc lòng bài thơ ấy. Bài thơ đầy tâm trạng ấy như khắc vào tâm hồn ông, nhưng quan tuần vũ vẫn lo âu có một vài chữ hoặc một câu nào ông lỡ quên mất.
Nắng tháng sáu vẫn chang chang trên kinh đô Huế tan nát, đau thương như một niềm bi tráng.

21

Ngày hai mươi lăm tháng sáu nguyệt lịch, Hàm Nghi nguyên niên, Ất dậu (05.08.1885), “[Thọ Xuân vương Miên Định] sai đình thần kiểm soạn thư tịch, dời đóng ở vương phủ Gia Hưng cũ làm việc. […]. Duy Nguyễn Văn Tường và những viên dự sung vào Viện Cơ mật, đều lưu ở Nha Thương bạc” (97) .
Ngày mười chín tháng sáu nguyệt lịch Ất dậu (30.07.1885), De Courcy, De Champeaux, Silvestre và Nguyễn Hữu Độ đã ép triều đình Đại Nam kí phụ ước sáu điểm. Hơn sáu ngày trôi qua, De Courcy, De Champeaux không thấy phụ chính đại thần lãnh thượng thư Bộ Lại Nguyễn Văn Tường viết và kí văn bản thăng chức, bổ nhiệm Nguyễn Hữu Độ làm kinh lược sứ Bắc Kì theo dụ của Từ Dũ thái hoàng thái hậu và nhiếp chính Thọ Xuân vương, như chúng đã ép buộc họ chấp nhận theo phụ ước sáu điểm. Cả hai tên “De” này cảm thấy rất bực bội, chúng liền hối thúc thượng thư Bộ Lại Nguyễn Văn Tường. Hôm nay, ông đã phụng dụ với một thủ thuật “bì lí xuân thu” khiến Nguyễn Hữu Độ, lúc này y đã ra Hà Nội, rất căm giận.
“Lấy quyền tổng đốc Hà – Ninh là Nguyễn Hữu Độ thăng thự Vũ Hiển điện đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, vẫn sung Bắc Kì kinh lược đại sứ (98):
“Khi ấy [Nguyễn] Hữu Độ đã trở về Hà Nội, đô thống Pháp là Cô Ra Xy [De Courcy], khâm sứ là Tham Bô [De Champeaux] bàn nói:
“Hiện nay Bắc Kì lắm việc, [Nguyễn] Hữu Độ ở đấy hiểu nhiều, nên trao cho điện hàm [Vũ hiển], sung viện chức [Viện Cơ mật], và vẫn sung chức sứ ấy. Phàm [tổng] đốc, [tuần] phủ, bố [chánh], án [sát], ở các tỉnh Bắc Kì, cho đến các phủ, huyện [ngoài đó], nếu nơi nào có khuyết, cho do Nha Kinh lược sứ [Bắc Kì] chọn tâu, chờ chỉ định đoạt”.
Nhiếp chính Miên Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường phúc tâu [:tâu lại lên Từ Dũ và Hai Cung]: “Việc đó là TẠM THỜI, nghĩ nên tạm nghe ý đó mà làm”.
[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường nhân phụng dụ [của Từ Dũ] nói: “TRẢI BÀY LÍ DO” [chứ không phải tuỳ tiện, muốn truất giáng, thăng bổ ai cũng được!]. Lại nói: “Do ngươi, tuy việc thoả bàn vụ hợp thời nghi, để xứng với lời khen của người mới được”. Vì ý ám chỉ chê [Nguyễn] Hữu Độ nương tựa vào thế quan Pháp, để được ngôi cao, mà không phải tự bản ý do mệnh lệnh của triều đình vậy.
(Trước đây, [hai vị phụ chính] Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết cho rằng [Nguyễn] Hữu Độ ở Hà Nội phần nhiều hay nịnh hót, quan Pháp rất được vui lòng. Cơ mật viện nhiều lần đem việc tâu lên, [xin nhà vua] chuẩn cho khiển giáng hay triệu về, [Nguyễn] Hữu Độ đều được quan Pháp che chở, rất là đáng ghét.
Ngày tháng bảy năm ngoái [Giáp thân, 1884], [hai phụ chính và đình thần] khuyên Bùi Hữu Tạo lấy việc xây sinh từ [của Nguyễn Hữu Độ] để tâu hặc, vì muốn nhân đó để đẩy [Nguyễn] Hữu Độ đến tội. [Nguyễn] Hữu Độ chứa sự bất bình đã lâu.
Gần đây, đô thống Pháp [De Courcy] từ Bắc về Sứ quán, tức thì trước mời [phụ chính Nguyễn] Văn Tường và [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đến họp. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngờ sợ cho là hẳn [Nguyễn] Hữu Độ đã có ngầm chỉ thế nào, nên mới như thế, cho nên sau không chịu đi; bèn gây hận [!].
Đến đây [Nguyễn Hữu Độ] về kinh. [Nguyễn Hữu Độ] lại đến Sứ quán, rồi về nhà riêng [của y tại Huế], uỷ [nhiệm người] đón nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định tới bàn với [phụ chính Nguyễn] Văn Tường. Và [Nguyễn Hữu Độ] gièm [trước rằng], không bàn với Thọ Xuân vương thì đừng đi.
Kịp khi [Nguyễn] Hữu Độ tới Sở Thương bạc mà [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở đó, hai người nói chuyện với nhau, đã hơi có ý khiếm hòa [:thiếu hòa khí].
[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường phụng dụ này [thăng chức, bổ nhiệm cho Nguyễn Hữu Độ], lời lẽ lại có ý chê ngầm theo kiểu bì lí xuân thu [:bề ngoài với lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu]. [Nguyễn] Hữu Độ tiếp dụ, giận lắm, nhân đó càng thêm để lòng)” (98)
.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường đã xác định rõ, việc chấp nhận phụ ước sáu điểm chỉ là TẠM THỜI, mọi việc truất giáng, thăng bổ quan chức Bắc Kì đều phải TRẢI BÀY LÍ DO. Ông kiên quyết động viên, thúc đẩy phong trào Cần vương để giúp triều đình còn giữ được chủ quyền ít nhiều cũng như “hoà” ước Patenôtre – Phạm Thận Duật (Giáp thân 1884) , và nếu có thể, phải buộc chúng chấp nhận trở lại “hoà” ước Giáp tuất 1874. Việc thăng chức và bổ nhiệm cho Nguyễn Hữu Độ cũng chỉ là tạm thời như thế, thậm chí là không có giá trị gì cả. Ông đã viết vào bản dụ trước đây, khi phải nhân nhượng tên tướng Millot, vẫn để Nguyễn Hữu Độ giữ chức tổng đốc Hà – Ninh, nhưng vẫn phải giáng y xuống hàm cửu phẩm, hàm thấp nhất trong ngạch hàm quan chức: “Phù phi nhạn tập, vô quan tổn ích ư giang hà; mã lão ngưu phì, bất ngoại sinh thành ư thiên địa” (con le le bay đi, con nhạn đậu lại, không thêm bớt gì bên sông; con ngựa già, con trâu mập, không ngoài sự sinh thành trong trời đất) (99) . Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bấy giờ gần như nói thẳng với tên tay sai, xu thời, “xem gió chuyển buồm” Nguyễn Hữu Độ rằng: Nguyễn Hữu Độ có giữ chức tổng đốc thì cũng không có gì thay đổi, vì đã bị vô hiệu hoá (như viên lính mới nhập ngũ lại giữ chức tướng!); tất cả mọi việc giáng chức, thăng chức đều thuộc quyền thiên tử nước Đại Nam (chứ không phải dựa hơi bọn Pháp xâm lược mà được, vì nhân dân hiện thời hoặc hậu thế sẽ phỉ nhổ). Lần này, bọn Pháp muốn thăng bổ Nguyễn Hữu Độ điện hàm Vũ hiển, sung viện chức đại thần Viện Cơ mật, lại là kinh lược sứ Bắc Kì với quyền lực như một “phó vương”. Thực chất, qua đó, chúng muốn cắt đứt Bắc Kì ra khỏi triều đình Đại Nam. Đất đai núi sông Bắc Kì vẫn còn thuộc Nam triều, nhưng nhân sự hoàn toàn của Pháp! Như thế là gần như mất đứt Bắc Kì, chỉ thiếu nỗi biến Bắc Kì thành thuộc địa như Nam Kì! Do đó, hôm mười chín tháng sáu nguyệt lịch vừa rồi, phụ chính Nguyễn Văn Tường nói như quát vào mặt tên tay sai Nguyễn Hữu Độ ấy, y chỉ là một thứ “bán nước cầu vinh” mà thôi! Bốn chữ “bán nước cầu vinh” thật đích đáng! Và với thủ thuật “bì lí xuân thu” , ông cho Nguyễn Hữu Độ hiểu, tuy vẫn thăng bổ như thế nhưng y sẽ chẳng có quyền hạn gì trong thực tế.
Thật sự, đó là một cuộc đấu tranh trong điều kiện hạn chế với tình thế lúc ấy để chống bọn cơ hội chủ nghĩa, xu thời, tay sai của thực dân Pháp, nhằm góp phần giữ vững triều Nguyễn. Đó hoàn toàn không phải là sự hiềm khích cá nhân tầm thường.

22

Đầu thượng tuần tháng bảy lại nổ ra một sự kiện đau lòng. Mặc dù quyền lực ở triều đình, ngay ở Viện Cơ mật, đã bị Pháp chi phối, lũng đoạn (đến mức De Champeaux đã giữ chức thượng thư Bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần!), phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn gắng gỏi trong chừng mức có thể để dập tắt chiến tranh lương – giáo, và tôn phù bọn chủ “hoà” như Tuy Lý vương Miên Trinh (100).
“… Bình Sơn tả vệ hương binh chánh quản là cử nhân Lê Trung Đình, hữu phó quản là bọn tú tài Nguyễn Tự Tân, Vũ Hội [thuộc võ hội hương binh?], và thương biện Nguyễn Văn Hoành cho rằng, xe vua đã ra, lại nghe có Dụ Cần vương, muốn nhân đó dấy quân, tức thì tới tỉnh xin cấp khí giới lương xướng. Tỉnh thần cho rằng lính hương binh chỉ canh giữ nơi làng xóm, không ví với lính tỉnh được, không dám tự tiện cấp, đợi chạy giấy mời những quan viên tại quán [:quan hưu trí] bàn nghĩ, sẽ làm. Bọn [Lê Trung] Đình, [Nguyễn Tự] Tân bèn chia phát binh phu làm ba đạo, tất cả hơn ba ngàn (3.000) tên. Trước ngày mồng hai tháng [bảy] này [11.08.1885], [quân Cần vương] tiến đến tỉnh thành. Hiệp quản Trần Tu, thành thủ úy là Nguyễn Côn mở cửa nội ứng. Bọn ấy sấn vào tỉnh thành, đem hai viên bố [chánh], án [sát] ra thành giam trói, thu lấy ấn triện, binh trượng, tiền lương, [và] buông tha tù phạm, [đồng thời] trước chém một tên suất đội, hai tên dân đạo, [lại] cất nguyên Tuy Lý vương Miên Trinh (nguyên được giáng tước công, an trí ở trong tỉnh thành này) làm phụ chính quốc vương. Miên Trinh không theo, giả làm có bệnh nằm lì không dậy. Bọn ấy [:quân Cần vương] bèn đặt những danh chức ngụy là thống đốc, tham tán, đề đốc, lãnh binh, đốt nhà và giết chết dân giáo, làm việc ngang ngược không kiêng nể ai. Quyền tiễu phủ sứ ở Sơn phòng Nghĩa Định là Nguyễn Thân báo với tổng đốc Bình – Phú là Lê Thận ([Lê] Thận đã ủy [nhiệm] cho án sát Bình Định là Lê Duy Cung đi cùng Sơn phòng [Ngãi – Định] họp làm), ủy [nhiệm] cho Đinh Hội đem hơn chín trăm (900) biền binh tiến tiễu.
Ngày mồng năm tháng [bảy] ấy [14.08.1885], [quân Sơn phòng Ngãi – Định] đến tỉnh [lị Quảng Ngãi], chia quân sấn vào thu phục tỉnh thành, và [thu lại] ấn triện bố [chánh], án [sát], bắt sống được [Lê] Trung Đình, và giết được bọn [Nguyễn] Tự Tân tất cả bảy tên. Còn dư [quân Cần vương] đều trốn chạy. [Nguyễn Thân, Đinh Hội] bèn đưa hai viên phiên [:bố chánh], niết [:án sát] về dinh. Tiễu phủ sứ [Nguyễn Thân] ấy tức thì ủy cho mời các quan viên ở quán họp bàn.([Đó là các quan hưu trí:] nguyên Lễ bộ thượng thư là Đỗ Đệ, thự đốc Bình – Phú là Nguyễn Trọng Biện [ Nguyễn Hiệp], tuần phủ Nam – Ngãi là Đoàn Nhượng, biện lí Công bộ là Vũ Duy Tĩnh (nguyên [tên] cũ là Văn Thanh)). Và [Nguyễn Thân] tư bàn với tuần phủ Nam – Ngãi là Nguyễn Ngoạn, quyền lưu hai phiên, niết, [cho họ] nhận ấn làm việc, để chờ mẹânh triều đình.
Và [đối với Lê] Trung Đình, [Nguyễn Thân ra lệnh] chém ngay. [Chém xong,] rồi người ta báo cho Hộ bộ lang trung [Hồ Ngọc Hào] biết.
Khi nhân việc tản về, Nguyễn Hữu Tạo cũng mưu khởi binh. Nguyễn Thân lại [lập] tức phái viên biền [binh] đến thẳng nhà bắt giết ngay, thu cả đồ binh trượng.
(Viên huyện Mộ Đức nói: “Do Sơn phòng thần [:quan Sơn phòng] báo, nói phong văn [:nghe phong thanh], nghe [Nguyễn] Hữu Tạo ngày hai mươi lăm tháng sáu [06.08. 1885] âm mưu họp đảng, kiểm xét, sửa sang các đồ binh trượng đi Bình Định để giết giáo dân).
[Đinh Hội, Nguyễn Thân] đều đem việc báo lên, hạt Quảng Ngãi nhân được yên ổn.
Đến đây Cơ mật viện cho rằng Sơn phòng ấy sớm hay làm tắt được ngòi cơ biến, [Thọ Xuân vương Miên Định] nghĩ chuẩn theo đặc cách thưởng cất cho Đinh Hội, Nguyễn Thân để tỏ sự khuyến khích. Còn bọn dư đảng nguyên đi theo [Lê] Trung Đình đã tan về thì miễn khỏi cứu xét” (100)
.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường lâu nay vẫn biết lão tướng Đinh Hội là một quan võ tốt. Ngoài ra, đến bấy giờ, quả thực, ông mới bắt đầu hé thấy bản chất gian ác và xu thời của Nguyễn Thân. Nguyễn Thân lần này giải quyết vụ Lê Trung Đình như thế xem ra cũng “tạm ổn” (!), nhưng dẫu sao, qua vụ việc đó, Nguyễn Thân cũng đã bắt đầu hé lộ, tuy chưa thật lộ rõ bản chất gian ác và xu thời ấy. Nguyễn Thân đã lộng quyền, chém Lê Trung Đình trước, mới báo cáo cho lang trung Bộ Hộ Hồ Ngọc Hào biết (100)! Y được De Champeaux khen thưởng! Sự nhập nhằng trong vụ việc phản ánh quan điểm không thể thống nhất, thậm chí phủ định nhau trong các thành viên Viện Cơ mật, bởi lúc này, oái oăm thay, De Champeaux lại là thượng thư Bộ Binh kiêm Cơ mật viện đại thần của triều Nguyễn!
Chống việc tôn phù bọn chủ “hoà”, như Lê Trung Đình yêu nước, nhưng quờ quạng tôn phù Tuy Lý vương Miên Trinh là không thể sai lầm… Trong chính trị, thậm chí có những sai lầm đáng tiếc và những nỗi khổ tâm phải đành ngậm đắng nuốt cay…
Còn chiến tranh lương – giáo? Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã phân biệt rõ bọn cố đạo cướp nước, bọn giáo dân phản quốc, đích thực là “tả đạo” với bao tu sĩ Thiên Chúa giáo, giáo dân lương thiện khác trên thế giới. Hai phụ chính và bao quan chức, sĩ dân yêu nước chỉ “sát tả” khi cố đạo, giáo dân có hành vi cướp nước, bán nước thực sự.
Hiện thực máu lửa ở Bình Định và khắp cả nước bấy giờ là có thật. Chính nhiều người Pháp cũng viết rõ, tuy với sự thổi phồng sự thật, trong một mức độ không ít, để kích động giáo dân ở Pháp và ở các nước Âu Mỹ, nhằm biện hộ cho sự xâm lược, “bảo hộ” của chúng!
“Các người chống Pháp nói rằng: “Những người Thiên Chúa [giáo] phản bội Tổ quốc để làm lợi cho nước Pháp. Chúng ta chỉ hòa bình khi nào người Pháp không có sự ủng hộ trong nước…”” […]. “Việc đánh lấy Thuận An, và buộc chấp nhận đô hộ làm cho ông phụ chính [Nguyễn Văn] Tường tức giận tột độ; nhưng ông Tường âm thầm, cẩn thận đè nén sự tức giận để dùng nó vào một dịp thuận lợi” (101).
“Bấy giờ mới nổi cơn bão táp rất dữ dội quá sức; từ khi nước Nam có đạo chẳng hề bao giờ bổn đạo phải cực khốn cực nạn bằng bấy giờ; vì trước kia, khi cấm đạo, chỉ có quan quân đi bắt bớ mà thôi, còn dân ngoại thì chẳng lo việc ấy, lại cũng thương kẻ bị bắt bớ. Còn lần này quan và dân ngoại đều đồng tâm hiệp lực mà quyết tận diệt kẻ có đạo” (102).
“… Các quan chức không muốn dính líu vào, sợ có sự không may về sau [cách diễn đạt của Delvaux!], nên để việc đó cho các sĩ phu đảm nhận, còn riêng họ vẫn ở trong bóng tối.
Trong các tỉnh, trong khi các sĩ phu chuẩn bị chiến đấu, thì các vị quan lớn lo trấn an các công chức của chính quyền bảo hộ cũng như các vị linh mục và giáo dân. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi rồi, các sĩ phu tiến chiếm thành trì của các tỉnh, và các quan tỉnh thì nhanh tay giao nạp các thành trì ấy, sau một vài sự phản kháng qua loa; và như thế là những cuộc cắt cổ [!sic !] bắt đầu” (103)
.

23

“Ý chỉ Từ Dụ thái hoàng thái hậu, ra ơn chuẩn cho Tuy Lý huyện công Miên Trinh, Hoằng Hoá hương công Miện Duyện, Hải Ninh kì ngoại hầu Miên Tằng và con phế đế [Hiệp Hoà] là Ưng Hiệp, Ưng Bác, con của nguyên Gia Hưng vương (đã chết bệnh) là Ưng Huy, Ưng Chân, Ưng Dũng, Ưng Linh, Ưng Suất, Ưng Vệ, (trừ Ưng diễn bị bệnh chết), trước đã an trí ở các tỉnh: Tuy Lý ở Quảng Ngãi, Hải Ninh ([ở] Bình Định), Hoằng Hoá ([ở] Phú An [:Yên]); Ưng Hiệp, Bác và Huy đều ở Quảng Trị, Cam Lộ; Chân, Dũng ở Nghệ An; Linh, Suất, Vệ ở Hà Tĩnh; nay đều tha về kinh [đô] ở. Nhưng do ba công ấy xem xét con cháu theo đi an trí, hạnh kiểm thuần cẩn ấy, có một, hai người cùng về, cùng nhau sáng chiều ăn ở với nhau. Dư [:số còn lại] đều vẫn như cũ. (Đến đời Đồng Khánh năm đầu, các công tử cũng đều chuẩn cho về, các vương công cũng đều lục tục [được] khai phục và truy phục)” (104) .

+++

“Thị độc ở quê là Đặng Hữu Phổ vì có tội bị chém đem rao:
[Đặng] Hữu Phổ, người ở Đông giáp, Bác Vọng, con phò mã Đặng [Huy] Cát (ấm thụ hàm ấy). Khi ấy phủ Thừa Thiên sức huyện Quảng Điền đòi bắt lính. [Đặng Huy] Cát cùng [Đặng] Hữu Bác ngăn gạt đi, bắt giam huyện phái. [Đặng] Hữu Phổ lại đem dân quân hơn ba mươi (30) tên đến huyện nha, buông thả tù phạm, nã bắt viên bang biện huyện ấy, đem về đình [của] giáp ấy canh giam, cầm súng doạ bắn.
Việc ấy đã phái cho nã xét.
[Từ Dũ thái hoàng thái hậu, Thọ Xuân vương Miên Định] chuẩn cho [Đặng] Hữu Bác [Phổ?(*)], chiểu lệ côn quang, [phải bị] xử trảm; [Đặng Hữu] Cát vì cha con cùng can [án], [được] giảm đẳng [:giảm mức] xuống tội trảm giam hậu [:chém, nhưng giam chờ xét lại]; bọn hiệp quản Lê Văn Ngãi, ấm sinh Nguyễn Tán, cộng năm người, là tòng phạm, đều kết án đi đày” (105)
.

24

“[Đầu trung tuần tháng bảy nguyệt lịch năm Ất dậu,] phái viên Pháp bắt thượng thư Bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần là Phạm Thận Duật về Sở Thương bạc, rồi ép xuống tàu thuỷ, chạy đi Gia Định:
([Phạm] Thận Duật nguyên theo [xa] giá vua, rồi khi [ông] về đến Quảng Trị, bị phái viên của Pháp bắt được)” (106)
.
Khi thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật bị bọn Pháp đẩy xuống chiếc tàu thuỷ nhỏ để đưa xuống chiếc thuyền buôn lớn hơn, tên tàu là Calais, chở ông vào Gia Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường lại một lần nữa hình dung ra cảnh ấy vào một ngày không còn lâu nữa, và người bị lưu đày lại là chính ông. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lại một lần nữa suýt phải rơi nước mắt thương cảm cho đồng sự, đồng chí, may là còn nén lòng để giữ được vẻ bình tĩnh, điềm đạm trước cảnh tượng hôm nay, một ngày trung tuần tháng bảy nguyệt lịch.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường còn nhớ, ngày mười tám tháng sáu (29.07.1885), Phạm Thận Duật bị bắt “khi [ông] về đến Quảng Trị” (106) . Hôm Pháp giải ông vào Nha Thương bạc, Phạm Thận Duật vốn đã ốm yếu lại càng ốm yếu. Tên Schmitz hỏi cung Phạm Thận Duật về hành trình phụ chính Tôn Thất Thuyết đã đi và nguyên nhân nào ông rời khỏi đoàn xa giá để về Quảng Trị, ghé vào nhà cựu thượng thư Trần Đình Túc ở huyện Gio Linh (Quảng Trị). Sự thật không cần nói cũng biết phụ chính Tôn Thất Thuyết và đoàn ngự giá chỉ quanh quẩn ở các sơn phòng, thượng đạo Quảng Trị, Quảng Bình. Số lượng người cứ hao mòn dần vì sốt rét rừng… Và Phạm Thận Duật bị bệnh tiểu đường, không thể tiếp tục cuộc chạy trốn khỏi sự săn đuổi của Pháp và cả quan quân triều đình muốn đón rước vua Hàm Nghi về Huế.
Khi được gặp phụ chính Nguyễn Văn Tường, thượng thư Phạm Thận Duật có một thoáng vui mừng trong sự mệt mỏi.
Không còn cách nào khác để tránh sự theo dõi của bọn Pháp, các cuộc chuyện trò giữa hai người tù đại thần vẫn phải diễn ra trong những lần “đi dạo” ở khuôn viên sân vườn Nha Thương bạc. Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói một cách thân tình:
- Quan Bộ Hộ sao lại về Gio Linh làm gì? Đã như thế, hãy sang lưu trú tại Trung Hoa luôn. Bệnh tật vậy, ở rừng làm sao có thuốc thang…
Thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật mỉm cười héo hắt:
- Không đi đường thượng đạo nổi, nên tôi xuôi sông ở Quảng Trị… Tôi định ra đường biển, qua biển Bắc (Trung Hoa). Dẫu hiệp ước Thiên Tân Pháp – Trung đã kí, nhưng thế nào mà chẳng còn một nơi cho người bệnh như tôi tá túc. Nếu đi đường rừng, hẳn an toàn hơn, nhưng không thể đi nổi…
Phụ chính Nguyễn Văn Tường thở dài:
- Tình hình triều đình bây giờ rất căng thẳng và đau đớn hơn bao giờ hết. Nhưng phong trào Cần vương lên mạnh, rất khí thế.
- Nhưng rồi cũng tuyệt vọng thôi. – Thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật nói –. Ở ngoài Bắc, hầu như Nguyễn Hữu Độ đã nịnh hót Pháp mà xiết chặt từ tỉnh đến làng xã. Chỉ có một số nơi hưởng ứng Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương nhưng rất lẻ tẻ…
- Dẫu sao cũng là những nỗ lực đáng quý. Nhưng tình trạng lúc này tranh tối tranh sáng rất đau lòng, như vụ con trai của phò mã Đặng Huy Cát và công chúa Tĩnh Hoà (nữ sĩ Huệ Phổ, con gái tiên đế Minh Mạng).
- Vụ Đặng Hữu Phổ phải không?
- Đúng, chính chú ruột của Phổ là Đặng Huy Xán đã bắt cả Phổ và phò mã Đặng Huy Cát nộp cho giặc Pháp (107). Nghe đâu bọn Pháp sẽ xử chém Đặng Hữu Phổ vào ngày áp cuối tháng tám dương lịch (29.08.1885) ngay tại bến đò làng Bác Vọng, huyện Hương Điền.
- Đúng là “nồi da xáo thịt”, trách ai được!
- Chính Từ Dũ thái hoàng thái hậu và nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định đã cắn răng, rơi nước mắt phê chuẩn! Tình cảnh bất lực và đau đớn của triều đình hiện nay là thế.
Cả hai đại thần đều im lặng thở dài.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ điềm tĩnh của một người không mất nghị lực:
- Nhưng tôi quyết tiếp tục đấu tranh, cho đến lúc nào còn đấu tranh được. Như vụ Nguyễn Hữu Độ chẳng hạn. Ngoài những nhiệm vụ lớn, tôi cũng không xem nhẹ việc đấu tranh chống những tên cơ hội, xu thời, “xem gió chuyển buồm” như Nguyễn Hữu Độ. Nhưng nói cho đúng, đấu tranh chống lại việc giao quyền lực kinh lược sứ tại Bắc Kì cho Nguyễn Hữu Độ, thực chất là đấu tranh để khỏi mất hẳn Bắc Kì vào tay giặc Pháp. Ngày mười chín tháng sáu nguyệt lịch Ất dậu (30.07.1885) và mới cách đây mấy hôm, khoảng ngày hai mươi lăm tháng sáu (05.08.1885), tôi đã cho Nguyễn Hữu Độ và bọn De Courcy, De Champeaux biết thế nào là phải phép!
Có Phạm Thận Duật tại nhà tù Nha Thương bạc này, phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng thật sự cảm thấy đỡ buồn, vì có một đại thần đã từng chung nhau nhiều công việc để chuyện trò.
Nhưng bọn Pháp không thể không chở thượng thư Phạm Thận Duật vào khám lớn tại Sài Gòn để khai thác thêm những thông tin về vua Hàm Nghi và phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết cùng kế hoạch của Viện Cơ mật trước ngày kinh đô quật khởi và thất thủ (05.07.1885).
Mười một ngày sau, mùng một tháng bảy (10.08.1885), thượng thư Phạm Thận Duật bị bọn Pháp ép xuống tàu buôn Calais. Phụ chính Nguyễn Văn Tường biết bọn Pháp chở dần từng người vào nhà lao của chúng để khảo cung. Nghe đâu, đến ngày hai mươi (29.08.1885), thượng thư họ Phạm bị kí giam vào khám đường La Grandière (*) tại Gia Định. Liệu thượng thư Phạm Thận Duật có biết im lặng hoặc biết nói sai sự thật?
Có một điều khác với cựu đề đốc Tôn Thất Đính là Phạm Thận Duật không bị kết án gì và cũng không có cáo trạng nào cả! Người ta không hiểu vì sao như vậy…

25

“… Tháng trước [tức là tháng sáu nguyệt lịch, Ất dậu], thân hào tỉnh ấy cũng nghe hành tại có Dụ Cần vương, mưu dấy quân, bèn họp đem những lính kinh tan về và lính dõng ở dân, [đi] đốt phá nhà [thờ] đạo [Thiên Chúa], dìm giết giáo dân, rồi đem binh dân ước hơn vạn người, [đi] quanh tới tỉnh thành, yêu cầu cấp cho khí giới (đã [ép] bách giám đốc thần là Lê Thận lại cho về dinh), ngụy đặt những danh mục đề đốc, tham tán, lại đi khắp trong hạt giết dân giáo, mộ lính dõng, nói phao lên tiến đánh quân Pháp ở cửa Thi Nại.
Khâm sứ Pháp là Tham Bô [De Champeaux] bàn phái: Cho khâm sai đã [nhận] mẹânh [lệnh], cho Binh bộ tham tri Hoàng Hữu Thường sung phái ngồi tầu thủy Pháp chạy đi.
Lúc đó vì đường ngăn trở, phải trở về.
Khâm sứ Pháp [De Champeaux] lại bàn tục phái [:phái tiếp]: Đổi sai thị lang Bộ Lễ là Ngô Trọng Tố (lãnh bố chính sứ tỉnh ấy về trước, tình thế đã am hiểu).
Rồi vì đường dịch lộ Quảng Ngãi không đi được, [De Champeaux] lại [bàn]: Sai lãnh bố chánh sứ Quảng Nam là Bùi Tiến Tiên (nhưng lấy án sát Hà Thúc Quán quyền sung bố chánh sứ Quảng Nam, [và] Hồng lô tự khanh về nuôi cha mẹ, là Nguyễn Duy Hiệu sung làm án sát sứ); thự thống chế Ngô Tất Ninh sung chánh, phó khâm sai, [cai] quản [và] đem quan binh hai tỉnh Nam – Ngãi bảy trăm (700) tên đi ngay đến, họp làm.
[Tất cả] đều nhân đường ngăn trở chưa đi được.
Đến đây thự tổng đốc là Lê Thận tâu nói: “Đã họp văn thân quan viên trong hạt ấy hiểu dụ. Bọn ấy đã tản về, xin nên rộng tha, cho yên sự phản trắc…” […]
“… […] Nếu còn giữ thói mê, do các quan đô thống [Pháp De Courcy], khâm sai [của triều đình?] đem đại đội quan binh, không kể lương hay giáo, cũng phải đau lòng đánh dẹp…”” (108)
.

26

“Thống chế thự đô thống Tả quân là Đinh Tử Lượng chết (109):
[Đinh] Tử Lượng trước đến hành tại Quảng Trị. Từ khi xe vua đi Sơn phòng [Tân Sở], [ông] vẫn lưu lại ở tỉnh ấy, vâng lệnh khâm cấp [:lệnh do thái hậu, nhiếp chính ban ra] để đi về miền Bắc đón rước xe vua [Hàm Nghi]. [Ông] cùng [tham tri Bộ Binh] Trương Văn Đễ cùng đi. Đến cửa quan Quảng Bình, [ông] ốm chết, [thái hậu, nhiếp chính] chuẩn cho chiểu hàm cấp tuất.
([Tham tri Bộ Binh Trương] Văn Đễ sau về [tới] tỉnh Quảng Trị ốm, [rồi] mất. Nguyên hàm thự tham tri đã chuẩn cho truy trao, cấp tuất)” (109)
.
Tham tri Trương Văn Đễ cũng như thự đô thống Đinh Tử Lượng, một người nhận lệnh bí mật lẻn về sau khi lên Tân Sở (110), một người vẫn đóng quân tại thành Quảng Trị, đều để cản hậu, làm nút chặn sự truy kích của giặc Pháp. Sau đó, cả hai vị quan tướng này lại nhận lệnh tìm vua Hàm Nghi để rước về kinh đô. Rất nhiều sĩ dân bấy giờ không thể không hiểu quốc kế chia tách – phối hợp triều chính với luật cổ điển “một nước không thể hai vua” và tính giai đoạn của nhiệm vụ họ được giao phó. Nhưng thật lòng vẫn có người ngờ rằng cả hai vị không phải đơn giản là ốm bệnh mà chết! Cho dù quả thật do bệnh ốm mà chết, bọn Pháp vẫn truy tội cố tham tri Trương Văn Đễ ngay trong tháng sau…

27

“Ý chỉ Ba Cung [thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)], lại xuống dụ cho thân hào, giám linh mục ở các địa phương trong [kinh], ngoài [tỉnh] và các dân lương, giáo: […] (111)

“… TỪ ĐIỀU ƯỚC TÁI ĐỊNH [PATENÔTRE, 1884] ĐÃ ĐƯỢC PHÂN MINH, KHIẾN NƯỚC PHÁP TRƯỚC TỰ BẠI HÒA GÂY BIẾN, THÌ PHÀM AI Ở ĐẤT VUA, CŨNG ĐỀU THÙ GHÉT [GIẶC PHÁP], AI BẢO LÀ KHÔNG NÊN. KHÔNG GÌ BẰNG CUỘC NGHĨA CỬ ĐÊM HAI MƯƠI HAI THÁNG NĂM [22 THÁNG 5 ẤT DẬU (05.07.1885)] NĂM NAY…” (*) (111)
.

Cuộc kinh đô quật khởi được Tam Cung đánh giá cao như một loé sáng bi tráng trong các bản dụ! Bà Nguyễn Nhược thị Bích và Tam Cung vốn khá chủ “hoà”, vẫn viết và tuyên cáo được những dòng chữ bi tráng tuyệt vời chính xác, mãi mãi loé sáng đến thiên thu như thế! Phải chăng do tác động bừng bừng khí thế vì quốc thể và danh dự một triều đại trong cuộc kinh đô quật khởi, mặc dù thất thủ một cách đau thương? Nếu đúng như thông lệ, các bản dụ đều có sự tham gia ý kiến của Viện Cơ mật, thì rõ là, có sự nhập nhằng trong sự chỉ đạo, vốn phản ánh quan điểm không thể thống nhất, thậm chí phủ định nhau trong các thành viên Viện Cơ mật. Ngoài ra, các bản dụ còn thể hiện sự nhập nhằng, lẫn xanh với đỏ, lẫn nếp với đậu, trong nhận định tình hình như thế (bởi lúc này, oái oăm thay, De Champeaux lại là thượng thư Bộ Binh kiêm Cơ mật viện đại thần của triều Nguyễn!).
Và cũng là ánh sáng độc lập, tự chủ bừng lên, với tư thế đã khiến kẻ thù đã phải sợ hãi, khi bản dụ xử lí minh bạch cuộc chiến tranh lương – giáo, thực chất là trấn áp bọn “tả đạo” cướp chính quyền, được viết và tuyên cáo (112):
“… Đến đây lại lấy hai bên bình, giáo còn chưa yên, [Ba Cung: thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)] lại dụ thêm rằng:
“Bình, giáo dù có khác lỗi, nhưng đều là con đỏ của Triều đình, không nên chia rẽ khác nhau. Gần đây, có nhiều việc giống nhau và khác nhau. Người làm dân lương ghét vì không đồng đạo [không cùng đạo thờ kính anh hùng dân tộc, thờ kính tổ tiên lâu đời của người Việt Nam] mà trong lòng sinh nóng lạnh. Người làm dân giáo, cậy thế [thực dân Pháp, cố đạo Pháp] lấn át, mà tình ruột thịt đem đặt ra ngoài da. Hai đằng ghét nhau thì hai đằng hẳn thù nhau, thì thế cố nhiên như thế. Nhưng xét kĩ ra thì đầu đuôi cũng tự người đầu mục không khéo xử trí cho nên nỗi ấy.
Ôi! Nhà nước dựng nên quan tư mục, cốt để trị dân. Làm sư đạo [giám mục, linh mục] của dân một địa phương, phải nên giữ lòng minh chính. Hoặc có kẻ bị ghét quá đáng, một khi kiện cáo, gia thêm nạt nộ mà dân giáo uất ức không bày tỏ được. Hoặc sợ hơi nóng bốc lên, gặp có sự lăng ngược, một chiều nín náu, mà ẩn tình của người dân lương không bày được. Làm giám linh mục ấy, trách nhiệm giảng giáo, phải nên giữ lòng công bình. Bình dân [:dân lương] hoặc có kẻ trốn tránh dao thuế, mà chạy vào nhà [Thiên Chúa] giáo ấy, hoặc có kẻ tranh chiếm ruộng đất mà nhờ thế [Thiên Chúa giáo] ấy, [thì] đều bao dung cả. Đến nỗi, có kẻ cậy thế mà bức bách người, hoặc có kẻ khinh thường pháp luật mà không đoái, đều không phải là sở ý của Thiên Chúa dạy dân. Kẻ bình dân kia sao không nghĩ cùng ở đất vua, đều là dân vua, giáo dân bình nhật binh đao thuế khóa cùng với lương dân cùng thế. Gián hoặc bức hiếp bình dân vì lẽ gì, sao không tới địa phương quan mà tố cáo, mà dám hại nhau, ngược đãi nhau ngang trái như thế, đối với pháp luật thực khó dung. Giáo dân ấy sao chẳng nghĩ sinh ở đời này, tam giáo cửu lưu, đều có đạo cả, nào ai có cấm đâu mà bèn mượn thế lấn người, đến nỗi chứa bao thù oán, lòng sao nỡ thế. Ôi! Giáo đã không dung được lương, thì lương cũng không cam tâm chịu thua giáo, phải đến tranh nhau, khiến cho trong chốn làng xóm, không lấy ơn lễ ở với nhau mà lại trông nhau như thù nghịch. Giết người, đốt nhà, tội có nhỏ đâu, mà lại đem thêm thử pháp luật như việc gần đây xảy ra ở Bình Định và Quảng Ngãi, rất là quái gở, đáng giận, cần nên tỏ rõ điển hình để răn bảo. Nhưng nghĩ bọn ngươi một khi giận dỗi, dám làm điều trái đạo, rồi hay cải hối được. Nếu chẳng uốn nắn cầu toàn, hẳn đến ngọc đá đều cháy. Trong lòng ta thực không nỡ thế, [nên] đã chuẩn gia ơn cho miễn sự tra xét một lần.
Từ nay nên hậu tình hòa hảo, không nên ghen ghét lẫn nhau. Làm người coi địa phương phải ngay sáng để xướng xuất, mà sự oan uổng cần được thân lí. Làm giám linh mục phải công bằng để dạy dỗ, mà sự ghen ghét phải bỏ đi. [Phải như thế] khiến cho cùng thuận, cùng giúp, cùng phù trì nhau, hai bên hoà thuận thì còn gì vui bằng. Nếu không khéo khu xử, đều tự thù hằn nhau, thì đều có tội để xử. Địa phương quan, [thì triều đình] chiếu theo lệ nịch chức nghiêm trị. Giám linh mục, [thì triều đình] tư sang nước Pháp nghĩ xử.
Đều nên kính cẩn nhé! Thông lục đều tuân”.…” (112)
.
Về cuộc chiến tranh lương – giáo, nhất là tại Bình Định, giữa lương dân bảo vệ chính quyền với “tả đạo” cướp chính quyền, các cố đạo Puginier và Van Camelbeck không tiếc lời nguyền rủa phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đã cam kết với chúng thế này nhưng lại ra mật lệnh thế kia:
- Nguyễn Văn Tường ấy, lão già quỷ quyệt ấy là “KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA NƯỚC PHÁP” (113) !
- Lão phụ chính Nguyễn Văn Tường ư? “Nguyễn Văn Tường là một người An Nam điêu toa nhất mà người ta đã gặp” (113) !
Về sau, tên cố đạo Aldophe Delvaux làm ra vẻ khách quan:
“Tướng De Courcy lấy tin tức [ở] ông Tường, ông này đều bảo đảm rằng sự trật tự an ninh đang hình thành khắp nơi. [Trong khi đó], các tin tức báo động dồn dập từ miền nam [tả kì] được gửi đến. Tướng Prudhomme muốn biết tường tận tình hình thật sự các việc, đã được ông De Courcy chấp thuận và cho phép đến các nơi ấy. Ông đi cùng ông De Champeaux trên chiếc tàu “Le Lutin” và đến Quy Nhơn ngày 18.8, và ông đã mục kích toàn là máu lửa” [!sic !] (114) .
Lời cáo buộc và nguyền rủa ấy của những kẻ không phải là tu sĩ chân chính, mà là tu sĩ mang bản chất thực dân thâm ác và cuồng bạo, khiến người ta không tin vào sự thổi phồng quá đáng về hậu quả chiến tranh lương – giáo, nhưng vẫn thấy rõ sự thù hận của chúng đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường.
Nhưng cái chính khiến các tên thực dân Pháp âu lo là mối liên lạc thường xuyên giữa hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trong kế sách chia tách – phối hợp triều chính:
“Một sự mâu thuẫn sâu xa chia rẽ tướng De Courcy và ông De Champeaux, nhất là đối với vấn đề ông phụ chánh Tường. Vị tướng thì quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết và [trước đó] lại nhúng tay vào mọi cuộc âm mưu lật đổ, và [vì thế,] đem [ông Tường] xuống tàu, đày đi Côn Đảo ngày 06.09 [1885]… […] lại chuyển đến Tahiti […]. Ông De Champeaux lại cho rằng ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn… […]” (115) .

28

[TƯỚNG GIẶC DE COURCY BẮT GIAM, KẾT ÁN, LƯU ĐÀY PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG; VÀ KHÂM SỨ GIẶC DE CHAMPEAUX CÁO THỊ RỘNG KHẮP VỀ VỤ VIỆC:]

“ĐÔ THỐNG ĐẠI PHÁP LÀ CÔ RA XY [DE COURCY] BẮT THÁI PHÓ, CẦN CHÁNH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, LÃNH LẠI BỘ THƯỢNG THƯ, KIÊM SUNG CƠ MẬT VIỆN ĐẠI THẦN, KÌ VĨ QUẬN CÔNG, LÀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG XUỐNG TÀU THỦY CHẠY ĐI GIA ĐỊNH (116):
CỨ THEO LỜI CÁO THỊ CỦA KHÂM SỨ THAM BÔ [DE CHAMPEAUX] NÓI: “[VIÊN QUAN HUẤN ĐẠO, TRI HUYỆN, TÁN LÍ, THƯỢNG THƯ NGUYỄN] VĂN TƯỜNG TỪNG ĐÃ CHỐNG CỰ NƯỚC [NƯỚC PHÁP] ẤY THỰC ĐÃ NHIỀU NĂM. TỪ KHI CÙNG TÔN THẤT THUYẾT SUNG LÀM PHỤ CHÁNH, [NGUYỄN VĂN TƯỜNG] CHỈN [:VỐN] LẠI ĐỔNG SUẤT QUAN QUÂN NỔI DẬY CÔNG KÍCH QUAN BINH NƯỚC [NƯỚC PHÁP] ẤY; VÀ [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG DO ĐÔ THỐNG ẤY XIN [CHÍNH PHỦ PHÁP] CHO HAI THÁNG [NHẰM ĐỂ] LO LIỆU VIỆC NƯỚC CÙNG BẮC KÌ CÙNG ĐƯỢC LẶNG YÊN VÔ SỰ; [KÌ THỰC] ĐẾN NGÀY HAI MƯƠI BẢY (27) THÁNG [BẢY] ẤY [05.09.1885] HẾT HẠN, MÀ CÁC TỈNH TẢ KÌ VỀ PHÍA NAM, CÓ NHIỀU NƠI NỔI QUÂN CHÉM GIẾT DÂN GIÁO.
ĐẾN ĐÂY ĐÔ THỐNG [DE COURCY] ẤY ĐỊNH ÁN, ƯNG [:NÊN / PHẢI] KẾT [PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG] TỘI LƯU”.
HÔM ẤY, [BỌN PHÁP] CHỞ ĐEM [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG ĐẾN CỬA BIỂN THUẬN AN. BUỔI CHIỀU NGUYỄN HỮU ĐỘ, PHAN ĐÌNH BÌNH ĐI TÀU THỦY PHÁP CŨNG VỀ ĐẾN CỬA BIỂN ẤY.
(THUYỀN PHÁP CHỞ [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG ĐẾN GIA ĐỊNH, SAU CHỞ GỒM CẢ [THƯỢNG THƯ BỘ HỘ] PHẠM THẬN DUẬT, [CỰU ĐỀ ĐỐC] LÊ ĐÍNH [:TÔN THẤT ĐÍNH] ĐEM VỀ NƯỚC ẤY [THUỘC ĐỊA TAHITI CỦA PHÁP]. [PHẠM] THẬN DUẬT TRONG KHI ĐI ĐƯỜNG, BỊ ỐM, CHẾT Ở TRONG TẦU, [PHẢI BỊ] BUÔNG XÁC XUỐNG BIỂN)” (*) (116)
.

Ngay sau khi phụ chính Nguyễn Văn Tường bị Pháp bắt đưa xuống tàu thuỷ, sáng hai mươi tám tháng bảy Ất dậu (06.09.1885), tại Quảng Trị, các sĩ phu Văn thân đã lãnh đạo nhân dân, phát động một cuộc “bình Tây sát tả” thật dữ dội. Những tên cố đạo Pháp, thực chất là gián điệp, như Mathey (117) (tên tiếng Việt là Thiện) chẳng hạn, đã bị lùng bắt, nhưng vẫn có tên thoát được. Sĩ dân đã đập tan âm mưu cướp chính quyền của bọn Tây “tả đạo” đó, và cũng để phục hận cho thái phó phụ chính Nguyễn Văn Tường.
“Một vài nhà truyền giáo trong tỉnh và một vài ông quan cho biết rằng năm 1885 [Ất dậu], nhất là vào tháng chín (9), tỉnh Quảng Trị đã là hiện trường của một cuộc tiêu diệt có phương pháp, được tiên liệu, có tổ chức, để loại trừ các người theo đạo Chúa, gây ra bởi đảng của Văn thân, có sự ủng hộ tinh thần của ít nhất là hai quan phụ chính…” (118) .
Chính tên Mathey, cố đạo gián điệp người Pháp này, sau đó, đã dẫn đường cho bọn Pháp viễn chinh mang súng đạn lên đánh phá Tân Sở và đốt cháy các làng Bảng Sơn, Mai Đàn gần đó (117)!

29

“Đô thống Pháp là Cô Ra Xi [De Courcy], khâm sứ Tham Bô [De Champeaux] đưa thư nói giao trả thành trì, yêu cầu rước Ba Cung đều [từ Khiêm lăng] trở về cung điện [trong hoàng thành]; quan lại các nha ở sáu bộ vào thành đóng ở, làm việc như cũ; phàm các [vật] hạng ở trong kinh thành đều giao trả cả. Và [hai tên đô thống Pháp là Cô Ra Xi [De Courcy], khâm sứ Tham Bô [De Champeaux]] cáo thị cho trong kingh [đô], ngoài tỉnh rằng:
“Trước đây, Nguyễn Văn Tường đã giảng hoà. Đô thống Pháp [De Courcy] đã đánh điện về triều Pháp biết. Gần đây, mới điện [qua,] phục lại ngôi hoàng đế nước Đại Nam như trước, Nhà nước Đại Nam cũng y như cũ. Cho nên, tới đây mới nói rõ sự giao trả thành trì” (119)…
“Mậu thìn (tức ngày mồng bốn tháng [tám] [12.09. 1885] này), chỉ dụ chuẩn rước Kiên Giang quận công [Ưng Kỹ] vào nối ngôi hoàng đế” (120).
“… Lấy ngày mồng sáu [14.09.1885] kính rước vào thành, ngày mười một [19.09. 1885] làm lễ tấn quang [vua bù nhìn, ngụy vương đầu tiên: Đồng Khánh]…” (120)
.
Ở phiến tấu về lễ đăng quang, cái tên tiếng Pháp của thượng thư Bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần Đại Nam là De Champeaux đứng đầu danh sách triều thần, trên cả nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định và hai tên đại thần tay sai Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, đã nói lên thực trạng bi thảm của triều đình nhà Nguyễn!
Chính triều nhà Nguyễn hầu như hoàn toàn cáo chung từ đấy. Đồng Khánh là tên vua khởi đầu cho giai đoạn ngụy triều ô nhục.

30

Sau hai tháng vùng quẫy trong những sợi dây càng ngày càng thít chặt của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã hoàn toàn chịu trói.
Quốc kế chia tách – phối hợp triều chính không thể thực hiện được một khi triều đình vắng bóng những đại thần như phụ chính Nguyễn Văn Tường, thậm chí còn bị phản tác dụng một cách đau lòng nữa là đằng khác (một nước lại có hai vua, huynh đệ tương tàn!).
Thế là triều đình hoàn toàn mất vào tay giặc Pháp, kể từ ngày hai mươi bảy tháng bảy (05.09.1885), ngày phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường bị giặc Pháp bắt xuống tàu thuỷ. Chuyến tàu lưu đày hôm ấy có lộ trình là chở ông vào Côn Đảo, sau khi ghé Gia Định để chở thượng thư Phạm Thận Duật và cựu đề đốc Tôn Thất Đính!
Khi tàu thuỷ cập bến Thủ Ngữ tại Sài Gòn, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn không muốn nguôi quên cuộc kinh đô quật khởi bi tráng, những tên trư tử người Pháp lao đầu vào chỗ chết và vị vua trẻ Hàm Nghi ông đã hết lòng vun xới, phù tá, đang trên các nẻo đường thượng đạo, sơn phòng. Ông cảm khái đọc hai câu song thất:

“Tây trư tựu trở bì do xích
Nam giáng li chi quả vị hoàng” (121)

Lợn Tây lao thớt, da nên trụi
Măng Việt rời cành, trái chửa hườm (121)


Tuy vậy, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn thấy rõ, cảm nhận rõ Đất nước đang bừng sôi một khí thế bi tráng của phong trào Cần vương, một phong trào bùng dậy như nước vỡ bờ bởi “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” và bởi sức mạnh quật khởi hoàn toàn tự giác của nhân dân Đại Nam ta.

31

Hai tháng trước, vào ngày rằm tháng năm Ất dậu, kì thi đình đã được tổ chức để tuyển chọn nhân tài cho Đất nước. Mười ba sĩ tử đạt trúng cách và thứ trúng cách được dự kì điện thí này. Trong kì thi ấy, chàng trai trẻ mười tám tuổi ta, con trai của Nguyễn Thượng Phiên, nhà ngoại giao đã từng đi vận động các nước châu Á ủng hộ nước ta chống Pháp và đã có thời gian lưu trú tại Quảng Châu (Trung Hoa), là Nguyễn Thượng Hiền. Ông nổi bật lên một cách xuất sắc, bên cạnh một chàng trai khác, đó là Nguyễn Văn Mại. Hai người thanh niên này, dẫu về sau một theo khuynh hướng chủ chiến, một ngã dần rồi ngã hẳn theo phía chủ “hoà”, với nhãn quan và cái dũng của ngòi bút khác nhau, đều đã thi xong, quyển được chấm xong. Nhưng kết quả chưa kịp truyền lô, cuộc kinh đô quật khởi đã bùng nổ.
Nguyễn Văn Mại, một viên quan chủ “hoà” về sau, nhưng lúc này đã ghi nhớ giúp phụ chính Nguyễn Văn Tường hai câu song thất: “Tây trư tựu trở bì do xích, Nam giáng li chi quả vị hoàng” . Nguyễn Thượng Hiền lại da diết hơn với bài thơ xót xa đến nhức nhối về cảnh Đất nước hoàn toàn mất hẳn vào tay giặc Pháp sau hai tháng vùng quẫy, giẫy giụa đầy bi tráng của triều đình tại Huế. Nguyễn Thượng Hiền suy ngẫm về bối cảnh của Đất nước, về ba đại thần Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Thuyết, và cả gia đình vị phụ chính Tôn Thất này, trong đó có cả cựu đề đốc Tôn Thất Đính, người đã theo con trai lên rừng núi, bị giặc bắt được và bị chúng kết án là “cư suất giúp tiễu [trừ giặc Pháp và “tả đạo”]” (93) . Bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền thê thiết đến đứt ruột nhưng vẫn ấm lửa bi hùng và thơm ngát hương sen, trung trinh “tơ lòng” không lìa “ngó ý” .
Một hôm vào khoảng trung tuần tháng tám Ất dậu (1885), Nguyễn Văn Mại, thủ khoa kì thi hương năm ngoái (1884), có gặp Nguyễn Thượng Hiền. Mại chỉ dám khe khẽ tâm sự:
- Hiền này, mình có được đọc bài thơ “Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương” của anh, thấy sợ giùm anh thật! Bọn Tây hay “tả đạo” nó chộp được thì bọn chúng lôi anh ra pháp trường Bắc Dã ngoài An Hoà ngay!
- Vậy chứ anh cũng đã theo “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” ra Quảng Trị… – Nguyễn Thượng Hiền đáp –.
- Mình buồn cho mình quá, muốn theo phò vua Hàm Nghi kháng chiến, nhưng thấy tuyệt vọng quá, đành quay về!
Nguyễn Thượng Hiền muốn trào nước mắt, anh nghiến răng, bậm môi lại. Một lúc Nguyễn Thượng Hiền mới nói được:
- Chiến không được, thủ không được, hoà không được, mình cũng đành quyền nghi bằng văn thơ thế thôi. Chắc phải nuôi chí đợi một thời, thế, cơ mới…
Nguyễn Văn Mại, hơn hai tháng nay đâm ra nhát, sau mấy ngày lặn lội ra Quảng Trị tìm đường phò vua. Mại nói như tự nhủ:
- Còn Mại này chắc phải “hoà” thôi… Văn Thiên Tường, vốn làm quan đến hữu thừa tướng triều Tống, khi nhà Tống sắp bại vong bởi quân Nguyên, ông ấy được cử đi bàn hoà với tướng giặc, bị chính tướng giặc Nguyên ấy bắt giữ lại… – Nguyễn Văn Mại bỏ lửng điển tích anh hùng bất khuất đến chết đó –. Bọn mình khác với hữu thừa tướng Văn Thiên Tường, bọn mình còn trẻ, chưa nặng nợ chi… Đỗ kì này, chưa được chút đỉnh chung nào cả, mà phải gánh nặng mấy trăm năm cựu triều… Tâm trạng một anh đồng hương Quảng Điền, Thừa Thiên, đồng khoa điện thí với bọn mình cũng nói rứa! Hiền có trách mình thì trách…
- Anh đồng hương Quảng Điền, Thừa Thiên nào vậy? Người trúng cách duy nhất vừa rồi phải không?
- Đúng là Trần Đạo Tiềm đó. Anh ta nói nguyên văn như ri: “Xưa ông Văn Thiên Tường bái tướng [bàn hoà], khí thế nước đã đến lúc nguy vong, mà thân [phải] gánh nặng ba trăm năm cơ nghiệp nhà Tống. Chúng ta đăng khoa kì này cũng là một sự bất hạnh [!] vậy” (122) .
Và Nguyễn Thượng Hiền, chàng trai mười tám tuổi, tân khoa kì thi hội, chưa kịp được công bố kết quả xếp hạng tiến sĩ ở bậc nào, không thể đọc lại cho Nguyễn Văn Mại, người bạn đồng khoa thi đình của anh, bài thơ “Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương” , bài thơ Hiền vốn rất tâm đắc. Nguyễn Thượng Hiền tự bảo mình, mình không thể ngã lòng rồi quyết chủ “hoà”, với tính toán cá nhân tầm thường như Trần Đạo Tiềm được!

[VÔ ĐỀ]

Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương
Dũ phong đình nguyệt thái thê lương
Sơn xuyên cố quốc âm tình cải
Nhung mã toàn gia đạo lộ trường
Không quá Tây môn bi thái phó
Thùy tòng Bắc hải vấn trung lang
Ngu uyên thử nhật vô tiêu tức
Trường đoạn thanh khê bích ngẫu hương (123).

Mai Sơn
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
(1868 - 1925)

[KHÔNG ĐỀ]

Trước lầu Huyền vũ, đầy đặc [trên] đất [là] sương
Gió [lùa qua] cửa sổ, trăng [chiếu rải ngoài] sân,
quá đỗi thê lương!
Sông núi nước cũ (:triều đại cũ, trước 05.07. 1885(*)),
giọng tiếng [và] lòng dạ đã biến đổi
[Cùng] binh lính, [vó] ngựa,
cả gia đình
[trên] đường sá [với] lối nẻo [đang mở rộng,
kéo ra] dài dặc
Cái hư không (:Trời) đến cửa Tây (**),
khóc không để lộ nước mắt
(đau đớn khóc thầm) thái phó
Ai giúp giùm biển Bắc, [xin] hỏi viên quan lang
(:quan nguồn) [đồng bào Thượng
ở thượng nguồn vốn có lòng] trung thành
Phương lặn mặt trời rực [nắng] ngày,
tin tức vắng bặt
Ruột đứt, khe nước trong xanh, xanh biếc ngó [ý,
với tơ lòng, hương] sen thơm ngát.

Huyền Vũ lầu không đặc lớp sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Non sông cố quốc bao thay đổi
Gươm ngựa toàn gia vạn dặm trường
Không [: Trời] đến cửa Tây,
thương thái phó
Ai về biển Bắc, hỏi trung lang
Tìm trời đáy biển không tin tức
Đứt ruột sen khe lộ ngó hương (123).

Huyền Vũ trước lầu đất ngập sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Núi sông nước cũ lòng thay giọng!
Gươm ngựa toàn nhà nẻo mở đường
“Vô” sái cửa Tây, thương thái phó
Ai xuôi biển Bắc, hỏi quan nguồn
Rực ngày phương lặn không tin tức
Ruột đứt khe xanh, biếc ngó hương (123)
.

Hết tệp 4
(PHÂN ĐOẠN 2)
– trọn TRUYỆN KÍ THỨ 12 –


Khởi viết từ 07 giờ 41
sáng ngày 17.01.2003
(15.12 Nh. ngọ HB.3)
Viết đến dòng chữ này vào lúc 17 giờ 07 phút,
ngày 24.01.2003 (22.12 Nh. ngọ. HB.3).


TRẦN XUÂN AN


(79) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 228.

(80) ĐNLT., bản dịch Viện Sử học, tập 3, Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1993, tr. 77 – 78. Như thông lệ, những câu văn không có bộ phận chủ ngữ (hoặc chủ từ: subject) mà vị từ (verb) của bộ phận vị ngữ (verb + object) là chuẩn, dụ, sai, tịch thu… thì bắt buộc phải hiểu ngầm chủ ngữ là vua, nhiếp chính, hoặc thái hậu, tam cung (thuỳ liêm thính chính [:buông rèm xử lí chính sự] ở trường hợp ngoại lệ). Nói một cách đơn giản, dưới chế độ phong kiến trung ương tập quyền cao độ như nhà Nguyễn (và hầu như chế độ phong kiến tập quyền nào cũng vậy), chỉ có vua, nhiếp chính, (hoặc ngoại lệ, thái hậu, tam cung) mới có quyền chuẩn định, ban sắc dụ, sai phái, tịch thu (khâm sai, khâm phái; tịch thu thi hành án với các viên đại quan…).

(81) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 233.

(82) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 229.

(83) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 229.

(84) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 229 – 231.

(85) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 231.

(86) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 232.

(87) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 233 – 234.

(88) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 234.

(89) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 531 – 532.

(90) ĐNTL.CB., tập 37, sđd., 1977, tr. 177.

(91) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 234.

(92) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 234 – 235.

(93) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 235.

(94) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 235.

(95) Dẫn theo: Phạm Văn Sơn, Việt Nam cách mạng cận sử (VNCMCS.), Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1963, tr. 41 – 42. Về cuốn sách này, cũng như các cuốn sách tham khảo khác, tôi đã có dịp phê phán trong khi tiếp thu (theo tinh thần nghiên cứu khoa học). Xem thêm: Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, bài tham luận của Nguyễn Hữu Thông và Nguyễn Quang Trung Tiến, kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử, ĐHSP. Tp.HCM., 20.6.1996, tr. 105 – 107.

(96) Xem đoạn trích bốn câu cuối trong VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 83 – 84; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 561; tư liệu sưu tầm của nhà nghiên cứu Lê Quang Thái, nhà thơ Lương An… Xem: Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản).

(97) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 236.

(98) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 236 – 237.

(99) Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử (LGTS.), Nguyễn Huy Xước dịch, bản in ronéo, 1961, tr. 38; tư liệu của Lương An… Về cuốn LGTS. này, chúng tôi đã tiếp thu và đã phê phán (một thao tác khoa học cần thiết trong việc tham khảo bất kì tư liệu nào, cuốn sách nào); xin xem: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, sắp xuất bản (2002).

(100) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 237 – 239.

(101) NNBCĐH. [BAVH., 1923], bài “Một trang sử tỉnh Quảng Trị, tháng 09.1885” của Jabouille, phụ trách Tổ chức công vụ Pháp, công sứ Pháp tại Quảng Trị, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, tập X (1923), Nxb. TH., 2002, tr. 439.

(102) H. Ravier, Compendium historicoe Ecclesiasticoe, dẫn theo GS. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử” (tập I của bộ sách SPTTTVN. TTK.XIX. ĐCTT.), Nxb. Tp.HCM., 1993, tr. 368, 370.

(103) NNBCĐH. [BAVH., 1916], bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 78 – 79.

(104) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 240.

(105) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 240 – 241.

(106) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 241.

(107) Nhóm Chu Thiên Hoàng Minh Giám, Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX (TVYN. NSTK. XIX), Nxb. Văn Học, 1970, tr. 295 và tư liệu của Đặng tộc; dẫn theo TCVNTCV., Nxb. Văn Học, sđd., 1997, tr. 192 – 193.

(108) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 241 – 242. Vụ Quảng Ngãi (Lê Trung Đình) và vụ Bình Định (Đào Doãn Địch) khác nhau về “ngọn cờ khởi nghĩa”. Lê Trung Đình tôn phù Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ hoàng tộc chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, vốn bị đày vào Quảng Ngãi (mặc dù Miên Trinh từ chối). Do đó Nguyễn Văn Tường đánh giá đấy là cuộc “nổi loạn” duy nhất (ĐNTL.CB, tập 36, sđd., tr 233 – 234). Đào Doãn Địch chỉ thuần hưởng ứng Dụ Cần vương, “bình Tây sát tả” (đánh Pháp và đánh bọn dữu dân trong giáo dân, vốn đích thực là tay sai của thực dân), nên ngầm được ủng hộ (mặc dù De Champeaux thúc giục đánh dẹp), và cuối cùng là được “rộng tha”. Về Lê Thận, do ông có thái độ đồng cảm, đồng tình, rộng tha với quân Cần vương, nên “quý quan [Pháp!!!] hiện đóng ở tỉnh ấy cũng không bằng lòng”; ông bị ngụy vương Đồng Khánh “[chuẩn cho] giáng hai cấp, mang theo hàm mới, về quê hưu dưỡng” (sđd., tập 37, tr. 52, 98). Tổng đốc Bình – Phú Lê Thận (cũng như Đinh Hội, thuộc phe Cần vương) là vị quan còn giữ được phẩm chất đáng quý. Xin xem lại: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”, khảo luận và phê bình sử học, bản in vi tính, 2002, sắp xuất bản.

(109) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 243.

(110) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 229.

(111) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

(112) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 245 – 246.

(113) Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam (1857 – 1914), luận án tiến sĩ, bản dịch in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 319: “Puginier, giám mục ở Bắc Kì, và Camelbeck, giám mục ở Quy Nhơn, đã mở một chiến dịch điên cuồng tấn công chống Nguyễn Văn Tường mà theo họ là kẻ thù lớn nhất của người Pháp và đồng thời cũng là người An Nam điêu toa [!] nhất mà người ta có thể gặp… Sự hợp tác của ông ta và De Courcy là một mưu mô [của ông ấy] nhằm đánh lừa người Pháp”; dẫn theo: Các báo cáo khoa học, bài “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) qua hai sự kiện tứ nguyệt tam vương và thất thủ kinh đô” của Trần Viết Ngạc, Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002., tr. 54 – 55.

(114) NNBCĐH. [BAVH., 1916], A. Delvaux, bài đã dẫn, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 79.

(115) NNBCĐH. [BAVH., 1916], A. Delvaux, bài đã dẫn, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 80.

(116) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 247.

(117) NNBCĐH. [BAVH., 1914], H. Pirey, tập I (1914), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 224 – 234. Xem thêm: chú thích (37) của truyện kí thứ năm, tập I, bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này.

(118) NNBCĐH. [BAVH., 1923], Jabouille, bài đã dẫn, tập X (1923), Nxb. TH., sđd., 2002, tr. 434.

(119) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 247 – 248.

(120) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 249.

(121) LGTS., bản in ronéo, sđd., 1961, tr. 38; Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), tr. 119 – 123.

(122) LGTS., bản in ronéo, sđd., 1961, tr. 35; Nhiều tác giả, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 530.

(123) Bản dịch thơ 1 của Chu Thiên Hoàng Minh Giám; bản dịch thơ 2 của Trần Xuân An (theo bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan).


Cước chú:

Cước chú của đoạn trích từ “Đại Nam liệt truyện” về Nguyễn Nhược thị Bích (chú thích 80 của truyện kí thứ mười hai):
(*) Lẽ ra, nên để đoạn trích dẫn từ “Đại Nam liệt truyện” này vào vị trí chú thích cuối trang hoặc cuối chương (truyện kí thứ mười hai), nhưng để tiện lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, tôi đặt ngay giữa trang.

Cước chú của tiết 20, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:
(*) Xin xem tư liệu bổ sung (mục I & IV) ở phần kết truyện kí cuối.

Cước chú của tiết 23, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:
(*) Hai chữ Hán, phổ (như phổ biến) và bác (như quảng bác), có nghĩa tương tự, được viết gần giống nhau. Có lẽ phiên âm nhầm.

Cước chú của tiết 25, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:
(*) Nay là Thư viện Tổng hợp Tp.HCM. (góc đường Lý Tự Trọng – Nam Kỳ khởi nghĩa).

Cước chú của tiết 27, đoạn đầu, thuộc truyện kí thứ mười hai:
(*) Để tiện việc lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, mạn phép được viết hoa toàn bộ đoạn trích này.

Cước chú bản án lưu đày PCĐT. Nguyễn Văn Tường do De Champeaux cáo thị (đầu tiết 28, thuộc truyện kí thứ mười hai):
(*) Để tiện việc lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, mạn phép được viết hoa toàn bộ đoạn trích này.

Cước chú bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền (cuối truyện kí thứ mười hai):
(*) Bấy giờ, thật sự là đã vong quốc, mất nước vào tay giặc Pháp.
(**) Cách hiểu đúng hơn: “không” là biện pháp vô vi (vô vi bất như bất vi), nhằm phối hợp với phong trào Cần vương; “quá” là sai lầm. Biện pháp vô vi đã sai lầm, bị sái trật trong thực tế lịch sử. Do đó, Nguyễn Văn Tường đã bị giặc Pháp phát hiện và kết án lưu đày biệt xứ. Vì vậy, “khiến [tác giả Nguyễn Thượng Hiền] khóc không để lộ nước mắt (:đau đớn khóc thầm) thái phó”.

Chú thích xong lúc 18 giờ kém 05 phút,
ngày 20.02.2003 (20.01 Quý mùi HB.3).


TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 4
(PHÂN ĐOẠN 2)
– trọn TRUYỆN KÍ THỨ 12 –

Xin xem tiếp tệp 5
(truyện kí cuối)
thuộc bộ sách “PCĐT. NVT.”.
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập IV B 3)

Tệp 3 – Tập IV Blog B
(phân đoạn 1, truyện kí thứ 12)

Tiếp theo tệp 2 tập IV Blog A
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/


TRẦN XUÂN AN

KINH ĐÔ QUẬT KHỞI
VÀ QUỐC KẾ CHIA TÁCH – PHỐI HỢP TRIỀU CHÍNH


Truyện kí thứ mười hai
(phân đoạn 1)

1

Triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới!
Trong vài năm gần đây, sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu” đã được phụ chính Nguyễn Văn Tường vạch ra và thúc đẩy để hình thành thế trận. Thế trận đã nổ bùng với cuộc chiến tranh Trung – Pháp. Căn cứ địa Tân Sở cùng hệ thống sơn phòng, thượng đạo đã được xây dựng, tăng cường, củng cố. Nhưng đến cuối tháng tư nguyệt lịch Ất dậu (1885), khi hiệp ước Pháp – Trung do Patenôtre và Lý Hồng Chương kí kết, triều đình Đại Nam và dân tộc ta hoàn toàn bị cắt đứt tất cả mọi mối liên hệ với Trung Hoa (1). Pháp cũng còn ép triều đình tự cắt đứt liên hệ máu thịt với các đội quân kháng chiến do các quan ta lãnh đạo (2). Và những con đường thông với Xiêm La cũng bị vây bủa bởi “hàng rào “tả đạo”” do giám mục Puginier, một tên trùm gián điệp, tung các giáo sĩ sang mạn đông bắc Lào và hẳn cả Hạ Lào để gầy dựng trong mấy năm trước.
Thật ra, không chỉ Trung Hoa, cả Xiêm La (Thái Lan) lẫn Miến Điện (Myanmar) đều bị bọn Anh, Pháp, Đức, Mỹ và cả Nga… xâu xé từ lâu (3). Trung Hoa là chỗ dựa vốn đã rất tàn yếu, nhưng dẫu sao cũng còn khá hơn Xiêm La, Miến Điện. Cao Mên đã bị Pháp cột chặt, hết giẫy giụa. Lào lại bị đến hai tầng áp bức. Bọn Âu Mĩ ngồi trên thân thể mục nát Xiêm La, Xiêm La nằm trên thân phận Lào với hai bàn tay rã rời còn cố sức bấu chặt. Triều Tiên, Lữ Tống (Philipines), Hạ Châu (Mã Lai), Nam Dương (Indo-nésia)… cũng bị bọn Âu Mĩ đè nặng không khác gì! Ấn Độ khổng lồ cũng từ rất lâu rơi vào vực nô lệ! Còn Nhật Bản hùa theo bọn Âu Mỹ để vừa làm nô lệ cho bọn chúng vừa cướp bóc đồng chủng láng giềng (3)!
Sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu” là một nỗ lực không phải không hiệu quả. Triều đình nhờ thế, đã tạo được một quãng thời gian hơn một năm để xây dựng, tăng cường, củng cố căn cứ địa Tân Sở cùng hệ thống sơn phòng, thượng đạo và chấn chỉnh binh lực, tuy vẫn bị Pháp và bọn cố đạo gián điệp phá rối, ngăn trở. Đôi khi, cũng đành phải nhân nhượng các yêu sách của chúng.
Triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới!
Dẫu sao, vẫn còn dãy Trường Sơn và núi rừng Việt Bắc ngay chính trong lãnh thổ của Đại Nam ta.
Trong những ngày thượng tuần tháng năm nguyệt lịch Ất dậu (1885), hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã nhiều lần bàn thảo với nhau về tình hình mới và kế sách mới.
Một hôm, vào cuối chiều, khi ánh nắng đã dịu bớt, hai quan phụ chính đứng bên hồ Thái Dịch trước Điện Thái hoà, nhìn những đoá sen đang giữa mùa hạ, nở bừng sắc hồng, sắc trắng với làn hương ngan ngát.
- Tình hình đã rất căng thẳng. Trước sau rồi bọn Pháp cũng tấn công vào kinh thành. Tin thám báo đã tâu vào, tên tướng Pháp De Courcy đã nhiều lần họp bàn với gã Nguyễn Hữu Độ và tên cố đạo Puginier. Có vài lần, y họp với khá nhiều quan chức ngoài Bắc Kì (4). Ngoài ra, một con đàn bà nghe đâu là hậu duệ nhà Lê vẫn được bọn chúng nuôi dưỡng ở hành cung Hà Nội. Hẳn chúng muốn lập nữ hoàng để dễ thao túng, kìm kẹp (5). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn cố giữ sự điềm tĩnh vốn có để nói –. Những tin thám báo ấy, cái đã có từ trước khi Dực tông Anh tiên đế còn chưa khuất núi, cái mới đây. Tôi đã phối kiểm và thấy đều xác thực. Như vậy, quan tướng phụ chính nghĩ thế nào?
- Ăn cơm vua, trả nợ nước, tôi nào sá gì cái chết. Gia trang tôi hầu hết ở Thanh Hoá. Một số ý kiến gần đây cho rằng, nếu chúng bức bách ta quá, thì cứ đánh, quyết không hàng. Đầu hàng là một sỉ nhục lớn. Năm kia, thất thủ Thuận An, triều đình do hai tên chó chết Hồng Dật và Trần Tiễn Thành khuynh loát đã một lần đầu hàng, nhục nhã quá sức. Cái nhục ấy còn ập trên đầu tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhục. Bấy giờ, sĩ dân, quan lính chửi Tôn Thất Thuyết này như thế nào, tôi làm sao quên. Ban đầu chúng bảo tôi “nực cười châu chấu đá xe” với chút hi vọng “tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”, rồi lại bảo tôi chỉ là thứ “miệng hùm gan sứa”… – Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết nghiến răng, nói như rít –. Rất tiếc là lúc này ta chưa chuẩn bị thật chu đáo! Tôi quyết rửa hận! Còn bản dụ hôm cuối tháng tư nguyệt lịch vừa rồi, vua Hàm Nghi “chuẩn sai [thông] tư đi cho [các tỉnh] biết và xét việc Nguyễn Văn Giáp như quả có thực, thì xét trị tội, cho khỏi tiếng phao đồn” (2) , mặc dù nhà vua cũng như chúng ta đều đoán biết “[nguyên bố chánh sứ] Nguyễn Văn Giáp sau đó lánh trú chẳng biết ở đâu” (2) , chúng ta đã có mật dụ đính chính rồi. Các tỉnh đều phân biệt loại chỉ dụ đối phó, gọi là hư dụ, với loại chỉ dụ chính thức, gọi là thực dụ. Như quan quận công phụ chính nói, không đời nào ta chịu cho chúng cắt lìa ta với các quan kháng chiến. Tôi thành thật khâm phục sách lược hai mặt với hư chiêu và thực chiêu này (6).
- Đó là tôi vận dụng kế lưỡng toàn trong bối cảnh hiện nay của chúng ta. Phải có thật nhiều Trương Định như gần hai mươi năm trước (7). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói –.
- Vâng, đúng vậy. Nhưng lần này chúng ta không rơi vào sự đoạn tuyệt như Dực tông Anh tiên đế hồi đó đã đoạn tuyệt với nghĩa sĩ Nam Kì (7). – Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết gật đầu –. Vả lại, chính tiên đế Tự Đức, sau khi buộc phải đoạn tuyệt như thế, rồi cũng quay lại với kế lưỡng toàn (7) .
- Đoạn tuyệt với các quan kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp có nghĩa là chúng ta cũng tự sát, hết đường thoát! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười nhưng không khỏi nghĩ ngợi về bối cảnh bế tắc hiện thời –. Chúng ta đang ở thế cưỡi hổ. Chúng ta có đầu hàng thì bọn Pháp cũng giết chúng ta mà thôi. Làm sao tự cắt đứt với các quan kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp được!
Tôn Thất Thuyết quắc mắt nhìn xuống những đoá sen giữa màu xanh lá khoả đầy mặt nước. Ông nuốt nước bọt như nuốt vào lòng cả nỗi căm uất.
- Nhà Thanh đã đầu hàng bọn Pháp. Sách lược “toạ sơn quan song hổ đấu”, thúc đẩy sự bùng nổ thế trận chiến tranh Trung – Pháp, nay đã hoàn toàn bị phá sản; ta chỉ còn được một cái là hệ thống sơn phòng, thượng đạo. Nhưng, tình hình này, ta không còn nguồn viện trợ nào về quân số là đã đành, khó thay là về vũ khí cũng thế. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường chậm rãi, từ tốn nói –. Liệu chúng tấn công kinh thành, ta có phản công nổi không, một khi chúng đã hầu như hoàn toàn rảnh tay ở Nam Kì, Bắc Kì nước ta và ở Phúc Châu, Đài Loan, Dương Tử giang bên Tàu? Theo kế hoạch, nếu thất thủ, tôi sẽ đưa vua và Tam Cung, hoàng thân ra Thanh Hoá, quan tướng phụ chính cầm cự ở Tân Sở, Vạn Xuân để cản hậu, các quan khác lo phòng thủ mặt biển, các tuyến sông Nghệ An, Hà Tĩnh, không cho chúng đổ bộ… Có điều, chỉ để cản đường cho đức vua và Tam Cung, hoàng thân thoát được bọn chúng mà thôi! Ta không qua Tàu, qua Xiêm được! Còn kháng chiến trên Trường Sơn, Việt Bắc? Thuốc đạn tích trữ trong các kho, ở các đồn, giỏi lắm chỉ còn đủ để kháng chiến một năm. Sau đó, lấy gì để tiếp tục kháng chiến? Triều đình rút lên rừng, thuế má vào tay bọn Pháp và bọn ngụy, thì ngân sách đâu để bí mật nhập lậu súng ống, đạn dược? Vả lại, mua số lượng ít còn lọt, chứ với số lượng nhiều, khó lọt lắm. Bọn Pháp tuần tiễu bằng tàu chiến của chúng khắp bờ biển, cửa sông, cho nên, thực trạng ấy cũng cần phải đặt thành vấn đề. Đây không phải là thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên – Mông, Lê Lợi chống quân Minh, chỉ bằng gươm đao cung nỏ tự chế tạo. Làm sao ta tự chế tạo súng, đạn tối tân? Nguyễn Xuân Phiếu đang mò mẫm chế được vài khẩu theo kiểu Hoa Kì, kiểu Đức… Ta chế tạo đang hoàn toàn thủ công, bọn Pháp chế tạo bằng cơ giới! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cảm thấy thật chua xót, ông nói tiếp –. Ta phải đặt hoàn cảnh nước ta vào bối cảnh chung các nước châu Á Tế Á (Asia), để trả lời những vấn nạn ấy. Từ đó, mới có thể đề ra quyết sách đối phó trước mắt và kháng chiến lâu dài. Chúng ta không thể vô trách nhiệm với tiền đồ nhà Nguyễn và vận mệnh nhân dân, Đất nước! Phải suy sâu nghĩ xa, ấy là trí. Đánh giặc, quét sạch bọn cướp nước, bán nước, để cứu nước, cứu dân là nhân. Quyết không đầu hàng giặc là khí tiết kẻ sĩ, là truyền thống anh hùng của dân tộc, ấy là dũng. Nhưng không thể manh động, liều lĩnh, để mang tiếng với muôn sau là bất trí… Tôi mong quan tướng phụ chính tự trả lời những vấn nạn ấy giúp tôi, để rồi đề ra quyết sách trong tình hình mới!
Quan đệ nhị phụ chính lặp lại những câu hỏi như tự hỏi chính mình:
- Bọn Pháp tấn công kinh thành, liệu ta có phản công đánh đuổi nổi chúng hay không? Nếu thắng, phải làm gì? Nếu bại, sẽ làm gì? Triều đình rút vào rừng với hệ thống sơn phòng, thượng đạo, liệu chúng có dựng nên nhà Lê với nữ hoàng, hay chúng sẽ dựng lên một tên vua như Dục Đức, như Hiệp Hoà, như Hồng Hưu hay còn tồi tệ hơn thế? Thuế má bọn Pháp và ngụy thu hết, thu với mức độ bóc lột tận xương tuỷ, dân còn gì để đóng góp? Vũ khí, thuốc đạn ở đâu để tiếp tục kháng chiến? Mặt biển, bọn Pháp không để lọt chiếc thuyền nào? Ta bị bao vây bốn phía, không sang Xiêm, sang Lào, sang Trung Hoa được? Trung Hoa còn mạnh hơn Xiêm, hơn Lào, nhưng cũng đã kí hiệp ước với Pháp là sẽ không giúp ta, vậy làm sao?
Ngẫm nghĩ một lúc, quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết lại chợt hỏi tiếp:
- Sao quan quận công phụ chính không đề cập đến bọn “tả đạo”? Chúng đã và đang là tai mắt khắp nơi của bọn Pháp!
- Tôi đặt những vấn nạn ấy là để tìm cách trả lời cho những gì còn chưa trả lời được… Vấn nạn “tả đạo”, câu trả lời đã có từ rất lâu, ngay cả quân Thanh vừa rồi cũng trả lời như thế (8). Nhưng thật rất đau lòng… Đó là “bình Tây” phải đi đôi với “sát tả”! Thật vô vàn đau xót, khi ta lại giết dân ta. Lương hay giáo đều là con đỏ của triều đình, nhưng chúng không chịu theo ta, phần lớn “dân giáo” chỉ ngoan cố theo cố đạo Pháp! Đã mấy chục năm trừng trị, thuyết phục, rồi lại khoan hồng, thuyết phục… Vậy mà mới năm kia, năm ngoái đây, tên linh mục Trần Lục vẫn sách động, xúi giục dân giáo Ninh Bình được! Quái tặc đến thế! May là ta chặn được ở Thừa Thiên và Thanh Hoá, không thì chiến tranh lương – giáo bùng nổ!
- Thế thì phải giết sạch, phá sạch! – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết rít lên –.
- Phá sạch nhà thờ Chúa của bọn Tây Âu ư? Giết sạch bọn giáo dân phản quốc ư? Làm sao giết hết được! Giết hết được thì đâu đến nỗi này! Bọn Pháp lại mượn cớ ấy để kích động giáo dân ở nước Pháp, ở các nước Âu Mĩ khác! Ta làm sao chống được cả Pháp lẫn Tây Ban Nha, Mỹ, Đức, kể cả bọn Anh theo Anh giáo, bọn Nga theo Chính thống giáo, bọn Mỹ và một bộ phận nhân dân các nước châu Âu theo Tin Lành giáo, thực chất đều thờ Nhi Nhu (Giê Su, Jésus) (9)! Tôi nghĩ, nếu cơ sự xảy ra, chỉ nên hạ lệnh giết ngay bọn cố đạo Tây, linh mục Việt và bọn trùm đạo, cho giáo dân như rắn không đầu, với bản án có cáo trạng, được tuyên xử hẳn hoi! Chúng không nói vào đâu được! Quan tướng phụ chính thấy tạm ổn chưa? Thật ra, tôi rất ngại phải gây sự với tất cả các nước Âu Mĩ. Nhân dân bạch chủng theo Thiên Chúa giáo ở Âu Mỹ vốn có thiên lương, họ cũng có lương tâm, lương tri, lương năng, nhưng trước sự tuyên truyền xuyên tạc, họ cũng ngu muội như dân hoàng chủng ta. Hễ cố đạo kích động là họ ủng hộ việc xâm lược của bọn thực dân chóp bu cầm quyền tại nước họ ngay. Cho nên chỉ tử hình bọn cố đạo Tây Âu làm gián điệp, cướp nước, bọn linh mục, bọn trùm xứ Việt bán nước đích thực thôi! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói nhỏ giọng lại –. Quan tướng phụ chính thừa biết, Dực tông Anh tiên đế đã bị dồn vào thế phải hạ mật dụ cho các quan tỉnh “làm ngầm” (10) khá nhiều bọn “tả tặc” ấy. “Làm ngầm”, tức là thủ tiêu, tử hình không có cáo trạng và cũng không ai biết do ai giết. Như thế, không ai có thể vin cớ “sát tả” để lật đổ triều Nguyễn ta, cướp nước ta!
- Chính tôi cũng đã thừa lệnh “làm ngầm” không ít tên “tả tặc”! Nay vẫn phải thế thôi! – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết nói –.
- “Cây muốn lặng, gió chẳng [chịu] ngừng” cho! Biết làm sao được! Nhưng phải đích xác là “tả tặc”! Không thể tử hình oan dân giáo lương thiện! – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói như nghẹn ngào –. Tội nghiệp dân ta, một số ngu muội quá, mà lại cứ ngoan cố theo giặc Pháp! Ta chỉ tử hình có cáo trạng và “làm ngầm” những tên giặc, đúng là những tên cướp nước, bán nước đích thực! Lương tâm ta không cắn rứt ta, nhân dân ta không thể nguyền rủa ta! Ta đâu phải là kẻ khát máu, cuồng sát! Đó là đối với giáo dân thuộc loại “tả đạo”. Nhưng với dân lương mà phản quốc thì cũng phải tử hình như thế. Phản quốc, phải bị tử hình, ấy là điều tất nhiên. Công lí nhân loại chẳng lẽ không phải thế! Thần Công lí của Âu Mỹ chẳng lẽ đui mù, không thấy sự thật? Có điều, với dân lương, chúng ta không phải “làm ngầm” (thủ tiêu bí mật). Công lí bao đời nay đều yêu cầu phải được thực hiện một cách công khai, minh bạch. Pháp đình phải là nơi sáng tỏ hơn cả ánh sáng ban ngày. Đối với dân giáo theo “tả tặc”, bán nước, phản bội Tổ quốc, chúng ta bất đắc dĩ phải “làm ngầm”. Chúng ta bất đắc dĩ phải đau lòng “làm ngầm” như vậy, bởi nhân dân Âu Mĩ không hiểu sự thật, họ hoàn toàn bị bọn thực dân chóp bu và Toà thánh La Mã, cố đạo bưng bít, xuyên tạc. Chúng bưng bít, xuyên tạc để kích động họ, nhằm lôi cuốn họ ủng hộ chúng đi xâm lược các nước thuộc Á Tế Á (Asia), A Phi Lị Gia (Africa), Mỹ Lợi Kiên (America), Úc Đại Lợi (châu Đại Dương, Australia). Thần Công lí của Âu Mỹ chẳng lẽ đui mù, không thấy sự thật?
Nắng chiều đã tắt hẳn, hai quan phụ chính vẫn còn bàn luận hồi lâu. Hương sen cuối chiều ngào ngạt thơm hơn bao giờ hết.
Sau đó, mỗi vị lên kiệu của mình. Trước, sau và hai bên mỗi chiếc kiệu đều có dăm lính cận vệ theo hầu. Hai chiếc kiệu ra cửa Hiển Nhân, về khu vực Lục Bộ. Chiếc kiệu của phụ chính Nguyễn Văn Tường dừng lại trên sân thuộc khuôn viên Bộ Lại. Chiếc kia của phụ chính Tôn Thất Thuyết vẫn tiếp tục đi đến dinh cơ Bộ Binh.
Cả hai vị phụ chính đang suy nghĩ tìm cách đối phó thật hiệu quả, trước tình hình vừa gay go, vừa cấp bách. Có lẽ nào cứ để diễn ra tình trạng triều đình càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới! Giữa ta và Pháp, đã đến mức một sống, một chết!

2

Roussel de Courcy đã đến vịnh Hạ Long hôm mười tám tháng tư Ất dậu (31.05.1885). Y hiện được giữ chức đô thống, kiêm quản các đạo quân Pháp hiện đang đóng tại miền Nam lẫn tại miền Bắc, đồng thời là toàn quyền đại thần của chính phủ Pháp tại Đại Nam. De Courcy có quyền hạn rất lớn, cả về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao. “Khâm sứ đóng ở kinh [đô Huế] là Tham Bô [De Champeaux] cũng [phải] theo lệnh của đô thống [De Courcy] ấy” (11) . Qua tên tướng Brière de L’Isle, cố đạo Puginier và Nguyễn Hữu Độ cũng như Nguyễn Trọng Hợp, cả Phan Đình Bình, cùng nhiều tên quan chức khác do Nguyễn Hữu Độ đưa lên, De Courcy hiểu rõ tình hình ở Huế.
Chưa bao giờ Nguyễn Hữu Độ ton hót nhiều hơn, trong việc bẩm báo của riêng y! Nguyễn Hữu Độ còn biết De Courcy vốn là một tay bảo hoàng hạng nặng (12) nên với sự tức giận sẵn có, y đơm đặt, xuyên tạc, bôi nhọ hai quan phụ chính thật thậm tệ, thậm chí y còn giả bộ khóc thương hai tên vua thân Pháp, là Dục Đức, Hiệp Hoà như phường tuồng lành nghề nữa (13)! Dẫu vậy, De Courcy vẫn tin ở các cố đạo, nhất là Puginier, và vẫn tin tên tướng Brière de L’Isle hơn. Puginier ở Đại Nam này hàng chục năm, Brière de L’Isle cũng ba năm ở xứ này, hằng ngày phải đối phó với hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, đâu ít ỏi gì!
Giám mục gián điệp Puginier còn viết điều trần gửi các nhà chức trách Pháp (ở thời điểm năm năm sau, vào ngày 09.03.1890):
“Vào cuối tháng tư năm 1885 [khoảng giữa tháng ba Ất dậu], hai quan phụ chính Tường và Thuyết đã viết cho ngài đại diện Pháp ở Huế một bức thư mà nội dung chủ yếu là sự khước từ công khai việc thi hành điều ước [Patenôtre]. Bức thư này đã được gửi cho quan lại các tỉnh kèm theo một bức thư mà nội dung là kêu gọi tiến hành một cuộc kháng chiến chống Pháp. Một bản sao của bức thư này đã được một nhân vật thân Pháp trong chính quyền [hàng tỉnh của] Nam triều gửi cho tôi, và tôi đã nhanh chóng gửi nó cho ngài đô đốc De Courcy” (14) .
De Courcy cũng đã đọc bức thư Puginier gửi cho tên tướng Millot, ngày 08 tháng 08.1884 trước đây, về căn cứ kháng chiến (sơn phòng) tại Thanh Hoá:
“… Đó chẳng qua chỉ là sự thực thi kế hoạch đã được vạch ra trong bản điều trần của các quan chức Thanh Hoá mà tôi đã có vinh dự gửi cho ngài bản dịch. Tôi cũng biết rằng bản điều trần đó đã được triều đình Huế chuẩn y. Tôi biết chắc chắn rằng trong tỉnh Thanh Hoá người ta đang mộ quân sơn cước với số lượng rất đông và đang có những sự chuẩn bị đặc biệt. Các quan chức ở tỉnh này muốn che giấu kế hoạch kháng chiến, đã giả vờ cử quân đi đánh dẹp, nhưng thật ra họ đã bí mật thông cánh với nhau” (14) .
De Courcy cũng đã nghe câu Brière de L’Isle thường nói: “Muốn giải quyết việc Đông Dương [Đại Nam, Lào, Cao Mên (Campuchia)], chỉ có một cách là bắt hai viên phụ chính” (15) [:“Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái cách duy nhất để giải quyết hiện tình là phải bắt cóc hai người quan phụ chính”] (15) .
Đô thống, hay có kẻ còn gọi là thống soái ấy, cố nắm thật chắc tình hình theo kinh nghiệm cáo già của y. “Thống soái hiểu rằng nếu triều đình Huế còn đứng vững, nếu Nam triều còn có hi vọng thoát li những điều bắt buộc trong hiệp ước mồng sáu tháng sáu 1884, nếu nước Việt Nam còn có chí muốn khôi phục chủ quyền ở Đất nước mình, là nhờ ở hai người: Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường” (16) . De Courcy đã đi đến kết luận là sẽ thực hiện theo ý định bắt cóc hai quan phụ chính của tên tướng Brière de L’Isle: “Đoạn chót này là ở Huế” [:“Phải giải quyết cả vấn đề này tại Huế”] (17) !
Ngày mười bốn tháng năm Ất dậu (26.06.1885), De Courcy gửi một bức điện về Paris:
“[Tôi] sẽ mang một lữ đoàn lính Ả Rập vào Huế. Mồng một tháng bảy, tới Thuận An. Mồng ba tháng bảy, tôi vào bệ kiến vua Việt Nam” (18) .
“Tôi mang trong lòng những nỗi căm hờn đối với các vị phụ chánh. Tôi sẽ hành động thận trọng nhưng cương quyết. Đánh điện về Huế cho biết, nêu Bộ chống lại việc dùng võ lực” (19) .
Về việc De Courcy lên tàu vào Huế, chiếc tàu mang tên gã “anh hùng thực dân” Henry Rivière, có một tên sĩ quan Pháp viết thư gửi cho người thân ở Paris:
“Sáng 27.06 [1885], thống soái De Courcy cùng với đại tá Crétin và các quan hầu đã xuống Hải Phòng đáp tàu “Henry Rivière” đi Huế. Đi theo tàu này có tàu Brandon chở đoàn quân Ả rập số 3 và năm trăm [500] bộ binh. Lính Ả Rập sẽ đóng tại Huế. Chuyến này có lẽ thống soái sẽ đối phó một cách quyết liệt. Chậm còn hơn không. Rồi đây chẳng biết thống soái có bắt Tường và Thuyết không, hay chỉ bẻ gãy sức hoạt động của hai người? Người ta đồn rằng những vàng bạc, châu báu của nhà Nguyễn chuyển cả sang Lào. Biết đâu nay mai triều đình chẳng theo sang để giữ cái kho bảo vật ấy” (20) [:“Nếu một hôm nào đó, triều đình sẽ đi theo số của cải ấy, thì không có gì là lạ cả”] (20) .
Thật ra, số vàng bạc ấy đã được vị quan thanh liêm, thẳng tính nhất là Vũ Trọng Bình chở vào Dương Hoà (hay Dương Yên, thuộc Quảng Nam) và chở ra Tân Sở (thuộc Quảng Trị) (21)…
De Courcy khi mới đến Bắc Kì, y đã “tức thì gửi thư báo cho khâm sứ [De Champeaux] đóng ở kinh biết” (22). “Đến đây, [De Courcy] dắt đem binh thuyền số nhiều, từ Bắc Kì đến cửa biển Thuận An” (22) . Đúng như dự tính, De Courcy và quân lính đã tới Huế vào ngày 02.07.1885 (hai mươi, tháng năm, năm Ất dậu), sau ngày Tết Đoan ngọ đúng mười lăm ngày. “[Nhà vua] sai hộ tiếp đô thống ấy đến Sứ quán” (22) .

3

Sau Tết Đoan ngọ, mùng năm tháng năm nguyệt lịch (17.06.1885), trong cuộc họp ở Viện Cơ mật – Thương bạc với sự có mặt của ba đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, vấn đề Pháp bắt buộc triều đình và nhân dân ta phải thực thi những điều khoản của “hoà” ước thực chất là cưỡng ước Giáp thân 1884 đã được bàn luận lại. Trong tình hình sau khi “hiệp” ước Thiên Tân Pháp – Trung 1885 mới vừa ráo mực, De Champeaux lại bắt ép triều đình quá đáng. Quả thật, không thể nào chấp nhận như vậy. Ba đại thần đều nhất trí tâu lên vua Hàm Nghi trong một buổi thiết triều. Hôm ấy, như thường lệ, có hai phụ chính thân thần Lạc quốc công Miên Lâm, Thịnh quốc công Miên Tuấn cùng đình thần.
Đại diện Viện – Bạc, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường tâu:
- “Hiện nay nước ta với nước Pháp, công việc giao thiệp, [thấy] nên phải bàn bạc nhiều. [Viện – Bạc] chúng tôi nghĩ làm quốc thư cho sứ [thần] đi sang kinh đô [Paris] nước đó, thăm hỏi Giám quốc [:tổng thống Pháp]. Nhân tiện đem các việc làm của phái viên [Pháp] nhiều lần không đúng [như ở kinh thành Huế, các nha hải phòng Đà Nẵng, Bình Định…] và các điều khoản trong tờ “hoà” ước [Giáp thân 1884] không thể chịu được. Xin phải [đề nghị Pháp cùng ta] bàn định châm chước lại cho [phải]. Nhưng chưa biết nước [Pháp] ấy có thuận nghe hay không. Xin [nhà vua có ý kiến để] sửa lại bức thư, nhờ quan khâm sứ gửi về giám quốc [Pháp], [xem] ý nghĩ [họ] thế nào. [Họ] phúc [đáp] đến, [Viện – Bạc] sẽ làm [:tiến hành việc cử sứ bộ] và sẽ nghĩ thư đệ trình” (23) .
Bức quốc thư ấy vẫn kiên định đấu tranh trong hoà dịu. Trước mặt nhà vua, các phụ chính thân thần, phụ chính đại thần, các quan chính khanh, á khanh, một vị quan của Nha Thương bạc dùng quả ấn truyền quốc “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh” để đóng chỗ giáp lai các tờ của bức quốc thư, đóng vào chỗ giáp ngoài bao bì, tất thảy sáu lần đóng dấu (23).
Vua Hàm Nghi “chuẩn cho theo lời tâu, thi hành” (23) .
Sau đó, bắt đầu từ ngày rằm tháng năm nguyệt lịch là dịp thi điện, khảo hạch lại các sĩ tử thi hội kì tháng tư vừa rồi đã đạt hạng trúng cách hoặc thứ trúng cách (24). Quan võ Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiển làm giám thí. Thượng thư Phạm Thận Duật (người Ninh Bình) và các quan văn Hoàng Hữu Thường (người Thừa Thiên), Vũ Tử Văn (người Quảng Trị), Đỗ Huy Liệu (người Nam Định) những hôm này phải làm giám khảo. Họ đang rất bận. Và kết quả kì thi điện này dự định sẽ truyền lô, phát bảng vào cuối tháng năm hoặc đầu tháng sáu tới (24).
Trong kì thi đình này, có một chàng trai xuất sắc mới mười bảy tuổi: Nguyễn Thượng Hiền (25). Người thanh niên ấy là con trai của quan biện lí Bộ Hộ Nguyễn Thượng Phiên, một nhà ngoại giao từng lưu trú để làm công tác ở Quảng Đông và từng đi vận động các nước châu Á ủng hộ Đại Nam chống Pháp mấy năm trước. Nguyễn Thượng Hiền thừa hiểu tình hình chưa bao giờ gay gắt, căng thẳng đến thế!
Đề đốc Bình Định mới, được sắp xếp bổ sung nhân lực cho tổng đốc Bình – Phú Lê Thận, vừa có lệnh điều bổ vào (26). Cách đây chưa bao lâu, Bình Định là nơi bọn Pháp ức hiếp quan ta, đóng đinh bịt lỗ châu mai gần bảy chục khẩu đại bác tại Nha Hải phòng! Nha Dinh điền Quảng Trị cũng vừa được chuẩn y lời tâu để thành lập, hỗ trợ cho Tân Sở và Sơn phòng Cam Lộ (27).
Dẫu tình hình đã rất căng thẳng, không khí chuẩn bị chiến tranh đã bao trùm khắp kinh đô Huế, nhưng đồng thời với việc sắp đặt thế trận, bố trí lực lượng quân binh và dự bị hậu lộ, thì các công việc bình thường vẫn phải tiến hành, tiến hành trong tình trạng khẩn trương…
Tình hình căng thẳng hầu như đã đến cực điểm!
Đúng như dự định của De Courcy, y và tàu chiến cùng quân lính đã tới Huế vào ngày 02.07.1885 (hai mươi, tháng năm, năm Ất dậu) (28)! De Courcy đi trình quốc thư của tổng thống Pháp mà hung hăng, dữ dằn, hùng hổ thế ư! Tuy vậy, theo phép lịch sự ngoại giao, hôm qua, khi Roussel de Courcy và tiểu đoàn trưởng Metzinger dẫn quân lính đến cửa biển Thuận An, triều đình đã cử hai vị quan Bộ Lễ cùng đi với khâm sứ De Champeaux về đến đó để đón tiếp. Tại Huế, sau khi cử nhạc tiếp tân, bên phía Pháp, hai mươi mốt tiếng súng đại bác nổ rền trời, bên phía ta, mười chín phát thần công cũng vang trời nổ, theo đúng nghi thức đón chào (28).

4

Khoảng vào giờ tị (10 – 11 giờ sáng), ngày hai mươi mốt nguyệt lịch, quan phụ chính Tôn Thất Thuyết cho dừng kiệu tại sân dinh thự Bộ Lại. Theo như thiệp báo đã được quân hầu cận thuộc Bộ Binh đệ trao trước đó, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng đang chờ ông. Sau khi thi lễ chào nhau, hai người bắt đầu đi vào câu chuyện.
Nét mặt hai quan phụ chính không thể không biểu lộ sự căng thẳng. Họ nhận định tình hình không đơn giản chút nào. Họ lại được nhận một trọng trách phải quyết đoán mọi việc, vì dẫu sao, vua Hàm Nghi mới mười lăm tuổi, còn phụ chính thân thần, đình thần và cả Tam Cung đều để họ định đoạt tất cả.
Quan tướng phụ chính nói:
- Tôi vừa nhận được tin mật, rằng bọn De Courcy, De Champeaux đang bày mưu bắt cóc tôi (29). Chúng chỉ nhắm đến một mình tôi thôi, bởi binh quyền ở trong tay Tôn Thất Thuyết này. Quan quận công phụ chính đã hay tin chưa?
- Ai đã báo lại cho quan tướng phụ chính tin đó? Tôi cũng mới vừa được báo cách đây một lúc không lâu.
- Chúng mới họp ở bên Sứ quán xong. Tin ấy là do một người nấu ăn ở Sứ quán tiết lộ (29).
- Phải phối kiểm lại tin thám báo ấy. Chắc gì tên đầu bếp lại báo một cách xác thực cho lính thám báo của ta? Nhưng dẫu sao, so với tin thám báo từ Hà Nội gửi vào, tin này chỉ đúng một nửa. Khi còn ở Hà Nội, tên De Courcy, Brière de L’Isle, Puginier, Nguyễn Hữu Độ đều đồng ý với nhau là sẽ bắt cả hai chúng ta. Lúc này, y chỉ muốn bắt mỗi một mình quan tướng phụ chính. Tại sao như vậy?
- Do tên khâm sứ De Champeaux, giám mục Caspar bàn lại chăng? Có thể như thế!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường ngẫm nghĩ. Một lúc, ông nói:
- Bọn này thật táo gan! Nhưng quan tướng không nghĩ rằng mưu kế của bọn chúng là, chính chúng nó chủ động bắn tin cho ta sao? Nói cách khác, chúng chỉ giả vờ bị rò rỉ tin tối mật ấy. Đó là một cái mưu rất vặt nhưng rất nguy hiểm. Người xưa gọi là kế li gián và ngầm ý khích tướng. Chúng muốn li gián giữa tôi với quan tướng.– Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường ngừng lại, rồi nói tiếp –. Trước đây chúng định chỉ bắt hai chúng ta, khiến cả triều đình, hoàng tộc dao động. Đa số triều thần, hoàng thân vốn chủ “hoà”, họ bỗng yên tâm khi hay tin chỉ hai chúng ta là mục tiêu phải bắt giữ hoặc tiêu diệt mà thôi. Lúc này, chúng bắn tin ra như thế, để tranh thủ tôi và cô lập quan tướng. Quan tướng phụ chính không nghĩ thế sao?
Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết hơi giật mình. Ông nói:
- Có lẽ như thế thật!
- Chắc quan tướng phụ chính còn nhớ kế li gián do Nguyễn Huệ sử dụng, khi quân Tây Sơn đánh chiếm thành Phú Xuân cách đây khoảng một trăm năm?
- Quan quận phụ chính có thể kể cho tôi thật ngắn gọn không? – Phụ chính Tôn thất Thuyết sốt ruột đề nghị –.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường thấy thì giờ đang cấp bách, nhưng không thể không kể. Ông hơi phân vân, rồi quyết định chỉ kể vài nét chính:
- Bấy giờ, thành Phú Xuân ở xứ Thuận Hoá này, quân Trịnh (Đàng Ngoài) đã chiếm đóng từ lâu trước đó. Chính hai viên tướng Lê – Trịnh là Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể đã mắc mưu, trúng kế li gián của Nguyễn Huệ (30)… Chuyện kể như thế này: “Phạm Ngô Cầu lại nhút nhát, hay ngờ vực, không hợp với phó tướng Hoàng Đình Thể. [Nguyễn] Nhạc và [Nguyễn] Huệ nhòm ngó [thành Phú Xuân] đã lâu, đến đây biết là có thể lấy được. Trước hết, [Nguyễn Huệ] sai thuật sĩ đem việc hoạ phúc làm cho [Phạm Ngô] Cầu mê hoặc. [Phạm Ngô Cầu] sai tướng sĩ đặt đàn chay lớn, ngày đêm không nghỉ. Quân bộ của [Nguyễn] Huệ qua núi Hải Vân, thủ tướng của họ Trịnh [Đàng Ngoài] là Hoàng Nghĩa Quyền đánh nhau [với quân Tây Sơn], bị chết. Quân thuỷ của [Nguyễn] Huệ từ cửa biển vào. Hai đường đều tiến lại. Cầu nghe tin báo, vội vàng từ đàn [chay tế] chạy về, mưu đem quân để chống. Nhưng quân lính [vì tế đàn dài ngày, thức suốt nhiều đêm,] mỏi mệt đã lâu, đều không có lòng chiến đấu. [Nguyễn] Huệ mật sai [Nguyễn] Hữu Chỉnh đem thư bóc nến [:sáp nến], [mật] ước với [Hoàng] Đình Thể, [rằng Thể] làm nội ứng [cho quân Tây Sơn], mà giả cách đưa lầm đến cho Cầu. Cầu cho Thể với Chỉnh cùng là môn hạ của [Hoàng] Ngũ Phúc [tướng của họ Trịnh], [nay Chỉnh đã theo hàng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng hẳn giữa Thể với Chỉnh vẫn còn tình cố cựu, đồng môn thuộc, biết đâu đã móc nối với nhau để cùng quy hàng quân Tây Sơn]. [Như thế, Cầu nghĩ], tất không lợi cho mình. Trong lòng [Phạm Ngô Cầu] ngờ vực, sợ hãi, riêng tính kế đón hàng [quân Tây Sơn] để mong được khỏi chết” .– Phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười, chua chát –. “Rồi thì quân Huệ chợt đến, quân thuỷ, quân bộ đánh giáp lại. Cầu sai Thể ra khỏi thành đón đánh. Thành gần bờ sông. Quân ở thuyền của [Nguyễn] Huệ ngửa trông lên chân thành, [thấy thành] cao hơn hai trượng, không thể ngửa lên bắn được. Thể bắn súng lớn chìm một chiếc thuyền. Quân [Nguyễn] Huệ hơi lùi. Chợt khi nước sông lên mạnh, thuyền sát đến thành, [quân Nguyễn Huệ] chiếu vào thành mà bắn. Rồi [Nguyễn Huệ] cho quân bộ vây các cửa thành. Thể cùng hai con [trai] hết sức đánh, chém giết được vài trăm người. Thuốc đạn đều hết, [Thể] sai người xin ở Cầu. Cầu không cho. Thể cả giận, muốn vào thành giết Cầu trước rồi sau mới ra đánh, thì đã thấy trên thành [chính Phạm Ngô Cầu đã cho lính] dựng cờ trắng [đầu hàng quân Tây Sơn] rồi. Thể lại vây quân, đem dao ngắn đánh tiếp, giết được vài mươi người. [Cuối cùng] hai con [trai Thể] đều chết trận. Thể sức kém, cũng tự đâm cổ, chết trên bành voi. [Nguyễn] Huệ đem quân vào thành [Phú Xuân], giết rất dữ. Quân miền Bắc [của họ Trịnh] ở trong thành vài vạn người đều [bị] giết hết cả. Người nào chạy ra ngoài thành, thì dân [Thuận Hoá] tranh nhau giết chết. Đốc thị là Nguyễn Trọng Đương cũng chết trong đám loạn quân. [Phạm Ngô] Cầu [tự] trói tay về sau lưng, xin hàng [Nguyễn Huệ]. [Nguyễn Huệ] đem [Phạm Ngô Cầu] về Quy Nhơn, giết đi” (30) .– Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường kể thật ngắn gọn vì thời giờ đang rất khẩn cấp, và ông nói tiếp –. Kế li gián thâm độc thế đó. Chúng ta ở ngay trên đất Phú Xuân của xứ Thuận Hoá này, lại có bài học lịch sử về kế li gián cách đây khoảng một trăm năm như thế! Quan tướng phụ chính và chính tôi đây đều phải cảnh giác mưu kế li gián của bọn De Courcy, De Champeaux và của cố đạo Caspar!
Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết ngẫm nghĩ. Ông thấy rõ ràng là bọn De Courcy đang bày mưu khích tướng và li gián. Lúc này, chúng giả vờ tranh thủ quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, muốn ông bị cô lập, và đang bức bách kinh thành. Ông thật sự căm giận, nhưng cố gắng nói vừa đủ hai người nghe:
- Chúng muốn ép tôi đến cùng, buộc tôi vào thế bí. Nhưng, tôi cũng không chịu đầu hàng chúng, không bao giờ đầu hàng chúng cả! Đến đâu thì đến. Bên cạnh tôi, ngày đêm luôn có quân Phấn Nghĩa túc trực để bảo vệ. Tôi không sợ. Nếu chúng làm tàng, phách lối, tôi sẽ cho chúng biết tay.
- Quan tướng phụ chính định tấn công chúng trước?
- “Tiên hạ thủ vi thượng sách” , tấn công trước là tốt nhất!
- Như thế sẽ rơi vào mưu kế khích tướng của chúng. Chúng chỉ mong có thế, để phản công, và cuối cùng là chiếm đóng cả kinh thành, hoàng cung. Như thế là không ai có thể trách cứ chúng vi phạm hiệp ước cả, bởi chúng sẽ đổ lỗi ta tấn công chúng trước! Dân ta và dư luận các nước không có lí do nào để căm phẫn, hoặc nếu có căm phẫn chăng thì cũng đã bớt cường độ nhiều rồi. Bọn De Courcy vừa đánh chiếm được kinh thành vừa không mất lòng dân hay ít mất lòng dân, còn dư luận các nước không nói vào đâu được. Trái lại, nếu cứ để chúng tấn công ta trước, ta mới có cớ để trách chúng vi phạm hiệp ước. Chỉ cần để chúng bắn trước vài phát, ta liền cho lính hô hoán lên, sau đó ta phản công mãnh liệt thì tốt hơn.
- Cái đó cũng dễ thôi. Nếu tối mai chúng tiệc tùng với nhau như tên đầu bếp nói, tôi sẽ cho thực hiện ở cống Thanh Long, buộc chúng phải nổ súng trước.
- Như thế là đỡ phải mắc mưu bọn Pháp. Rất hay. Nhưng đó là chúng ta lo xa, nghĩ sâu vậy thôi, chứ ai cũng biết, cho dù ta tấn công trước hay chúng tấn công trước thì cũng đều do chúng bức bách ta mà ra. Nhưng cẩn trọng trước dư luận vẫn hơn. Đó là bàn cho tận cùng kì lí. Và một điều nữa, tôi muốn quan tướng phụ chính trả lời những câu hỏi mươi hôm trước tôi và quan tướng đã nêu ra.
Quan tướng đã suy nghĩ rất kĩ về những vấn nạn đó. Từ hôm hai vị phụ chính bàn luận bên hồ Thái Dịch ngát hương sen ấy đến nay, ông đã không ngớt thao thức trước những câu hỏi: Bọn Pháp tấn công kinh thành, liệu ta có phản công đánh đuổi nổi chúng hay không? Nếu thắng, phải làm gì? Nếu bại, sẽ làm gì? Triều đình rút vào rừng với hệ thống sơn phòng, thượng đạo, liệu chúng có dựng lại nhà Lê với nữ hoàng, hay chúng sẽ dựng lên một tên vua như Dục Đức, như Hiệp Hoà, như Hồng Hưu hay còn tồi tệ hơn thế? Thuế má bọn Pháp và ngụy thu hết, thu với mức thuế bóc lột tận xương tuỷ, dân còn gì để đóng góp? Vũ khí, thuốc đạn ở đâu để tiếp tục kháng chiến? Mặt biển, bọn Pháp không để lọt chiếc thuyền nào? Ta bị bao vây bốn phía, không sang Xiêm, sang Lào, sang Trung Hoa được? Trung Hoa còn mạnh hơn Xiêm, hơn Lào, nhưng cũng đã kí hiệp ước với Pháp là sẽ không giúp ta, vậy làm sao?
Quan tướng Tôn Thất Thuyết bỗng quyết tâm hơn bao giờ hết. Ông liền nói:
- Xưa nay chưa có ai khen người đầu hàng. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” ! Có lẽ cơ đồ triều Nguyễn đến đây là hết. Tôi với quan quận công phụ chính cũng đã gắng gỏi đến cùng. Không còn cách nào nữa. Ta chỉ biết làm trọn trách nhiệm ta mà thôi. Đó là phải chiến đấu đến cùng để giữ danh dự cho triều Nguyễn, như quan quận công thường nói. “Chớ đem thành bại luận anh hùng” ! Xưa nay có ai chê trách An Dương vương khi mất thành mà tự sát đâu, mặc dù ông vua ấy chủ quan, mắc mưu gián điệp là rất đáng trách. Ông ta không bị chê trách ở chỗ ông ta không đầu hàng và biết tự sát để giữ khí tiết. Ai trách Hai Bà Trưng mất thành, nhảy xuống sông Hát tử tiết đâu. Ai trách Mai Hắc đế không đầu hàng đâu, mà còn khen ngợi nữa. Ai trách vua Trần Trùng Quang và Đặng Dung đâu, cho dù họ bại trận, bị giặc bắt, phải nhảy xuống biển tự vẫn. Quan quận công phụ chính thường hay nói chuyện kinh sử nước ta với tôi mà!
- Không sai chút nào hết. Không ai khen ngợi kẻ đầu hàng trước giặc ngoại xâm hay trước giặc nội loạn phi nghĩa. Rõ ràng triều Nguyễn ta là chính nghĩa, bọn Pháp và “tả đạo” là phi nghĩa. Ta đầu hàng bọn Pháp và “tả đạo”, tất nhiên hậu thế muôn đời sẽ nguyền rủa ta. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói rõ hơn, và nói tiếp –. “Thà chết vinh hơn sống nhục” trong trường hợp triều Nguyễn ta là sao đây? Ấy là phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tròn sứ mệnh của một triều đại lãnh đạo cả dân tộc, và cho dẫu triều Nguyễn ta sụp đổ thì triều Nguyễn ta vẫn vinh quang đến muôn đời. Như thế, tất nhiên còn hơn là cả vua lẫn quan triều Nguyễn ta chịu làm tôi tớ cho bọn Pháp và “tả đạo” dưới chiêu bài mị dân của chúng, để muôn đời hậu thế nguyền rủa. Chúng ta sôi kinh nấu sử một đời cũng chỉ học có mỗi một bài học đó thôi. Không ai không biết. Ngay cả người thường dân lê thứ, cũng hiểu truyền thống đó, nữa là kẻ sĩ, quan chức chúng ta. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười, bỗng rất đỗi điềm tĩnh –. Tuy nhiên, vẫn còn một kế sách cuối cùng, tôi sẽ bàn với quan tướng phụ chính. Thật ra, hôm trước tôi đã nói đến kế sách của đức Dực tông Anh tiên đế, ấy là kế lưỡng toàn và quyết không đoạn tuyệt với phong trào nghĩa sĩ (nhưng rất tiếc là đức Dực tông Anh tiên đế đã trót lỡ mà đoạn tuyệt!) (7). Phục vụ cho kế sách lưỡng toàn và không bao giờ đoạn tuyệt với phong trào nghĩa sĩ ấy là “hư chiêu” “thực chiêu” (nói theo danh từ võ thuật). “Hư chiêu” “thực chiêu” có nghĩa là sắc dụ giả vờ, nhưng công khai và sắc dụ chính thức, lại bí mật (14). – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường chậm rãi và khe khẽ nói kề bên tai quan tướng Tôn Thất Thuyết –. Nếu giả định kinh thành sau khi quật khởi mà bị thất thủ, một nửa sẽ lên sơn phòng, thượng đạo tiếp tục kháng chiến, còn một nửa ở lại cứ giả vờ chấp nhận chịu “bảo hộ”. Tức là “nửa bí mật, nửa công khai” . Nhà vua sẽ lãnh đạo bằng mật dụ. Tất cả các quan phải thi hành theo sắc dụ bí mật (mật dụ). Còn sắc dụ giả vờ, công khai (hư dụ) chỉ là hình thức đối phó với bọn Pháp, “tả đạo”. Có như vậy, các quan binh kháng chiến mới có thể có vũ khí, đạn dược, quân trang, lương thực được tiếp viện từ triều đình một cách bí mật. Nếu không thì đào đâu ra? Nước nào viện trợ?… Tóm lại, cụ thể là đêm nay hoặc đêm mai, tôi hoặc quan tướng, sẽ có một người chỉ huy tấn công bọn Pháp ở Mang Cá và ở Sứ quán, còn một người giả vờ không biết gì cả để có thể ở lại, củng cố lại triều đình và hệ thống quan các tỉnh, phủ, huyện. Như thế là lưỡng toàn. Quốc kế này chỉ tôi và quan tướng biết mà thôi, không tiết lộ cho ai biết nữa. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường lại nói –. Nếu thắng trận này, ta cứ phải đổ lỗi cho De Courcy bức bách ta (sự thật đúng như vậy!) hoặc đổ lỗi chúng nổ súng bắn ta trước. Bởi thắng trận đánh danh dự, trận đánh quốc thể này, còn nhiều trận sau nữa, chứ đã hết đâu, ta đâu đã hoàn toàn thắng lợi, đuổi sạch bọn Pháp và các tên cố đạo gián điệp đâu! Ta còn phải có cớ để đấu tranh trước công luận, cho dù công luận hiện nay của các nước thực dân là công luận hàm hồ, già mồm và ỷ mạnh.
Hai vị phụ chánh bàn bạc rất cụ thể, vạch ra từng phương án một, trong đó có phương án rất quan trọng là ban bố “Dụ Cần vương” tại Tân Sở (31). Cả hai vị đều hiểu rằng: “người đi” (32) cho dù gian khổ ở rừng thiêng nước độc, thậm chí phải làm người thượng, thì vẫn hiên ngang và tự do, tự chủ, còn “kẻ ở” (32) có thể sẽ bị De Courcy bắn chết ngay sau khi kinh đô, hoàng thành bị bọn Pháp chiếm được. Đó là chưa nói về danh dự, khí tiết!
Ai là “kẻ ở”? Ai là “người đi”? Hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trầm ngâm nghĩ ngợi.
Gần đúng ngọ (11 – 13 giờ trưa), nắng chói rực bên ngoài vuông sân rộng của dinh cơ Bộ Lại. Tình thế và thời giờ cấp bách lắm rồi. Phải nhờ quan lão thành nổi tiếng thanh liêm, trực tính Vũ Trọng Bình cắt cử người đưa ra Tân Sở thêm những bảo vật và xem xét cẩn trọng việc bảo quản các bảo vật đó. Phải kiểm tra, đôn đốc lại quân binh phòng thủ. Trận địa sẽ là kinh thành, hoàng thành này! Không thể muộn hơn được nữa! Trận đánh vì quốc thể và vì danh dự triều Nguyễn!
Trong tất cả vua quan, triều thần, hoàng thân, và đặc biệt là hai quan phụ chính, ai mất, ai còn trong những giờ khắc sắp điểm?

5

Hôm sau, ngày hai mươi mốt tháng năm Ất dậu (03.07.1885), Viện Cơ mật quyết định sang Sứ quán theo như giấy mời của De Courcy để bàn về thể thức triều yết và trình quốc thư của chính phủ Pháp (33) do tên thực dân Brisson làm thủ tướng. Không thể không đi, nhưng thật sự quan phụ chính Nguyễn Văn Tường rất ngại thủ đoạn của tên đô thống De Courcy. Nhỡ y bắt ông và các quan khác vào Gia Định như đã từng bắt tổng đốc Hà Văn Quan và một số quan khác ở Bắc Kì thì làm sao! Thế thì thật mất mặt, rất nhục nhã. Chính quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng không chịu đi (33)!
Tối hôm qua, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường đã suy nghĩ nhiều để tìm cách ứng xử trong trường hợp này. Sáng nay, ông vẫn điềm tĩnh đến Viện Cơ mật – Thương bạc. Tại đó, hiện diện gần như đủ mặt các quan từ đại thần đến tham biện, tư vụ, tất nhiên không thể thiếu quan tướng Tôn Thất Thuyết.
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường bảo:
- Thế này, bây giờ đi tất cả, nhỡ tên De Courcy làm ẩu, thì lấy ai bảo vệ kinh thành, đức vua và Tam Cung cùng đình thần, hoàng thân. Cho nên, tôi đồng ý là chỉ tôi và đại thần Phạm Thận Duật cùng năm vị nữa, gồm hai phụ chính thân thần Miên Tuấn, Miên Lâm và ba tham biện, tư vụ của Viện. Nhưng phái đoàn ta đi, không theo nghi thức vốn có với cờ lọng kèn trống, mà đi có nhiều lính hộ tống với vũ trang. Ta đi tắt, khá lặng lẽ, đừng để nhân dân chú ý nhiều, gây kinh động. Chúng ta có lính hộ tống vào tận cửa phòng họp, nếu bọn Pháp làm ẩu, ta lệnh cho lính hộ tống chận cửa phòng họp lại. Ngoài số lính hộ tống, còn có một đội mai phục sẵn ở gần Sứ quán để yểm trợ, một cơ khác mai phục trên sông để chặn tàu thuyền của chúng. Bên này sông, số quân mai phục sẵn sẽ vượt nhanh qua sông, phối hợp ứng cứu.
- Tôi xin cắt cử đủ quân như quan quận công phụ chính bàn. – Quan tướng phụ chính Tôn Thất Thuyết hết sức vui mừng tán thành –.
Phái đoàn lặng lẽ đi tắt sang sông, không có nghi thức long trọng như mọi lần.
Đến Sứ quán, phái đoàn được mời vào phòng họp. Quân cận vệ khá đông cũng vào theo và đứng chặn trước cửa. De Courcy, De Champeaux hơi bất ngờ nhưng chúng hiểu ra ngay. Chúng biết mưu kế bắt cóc của chúng đã đến tai hai quan phụ chính. Thật ra, đó cũng là lời tuyên chiến của chúng mà thôi, nhằm mục đích khích tướng để quan Bộ Binh Tôn Thất Thuyết nổ súng trước. Chúng thấy đánh chiếm kinh thành thì công to và thu lợi nhiều hơn là chỉ bắt cóc hai phụ chính. Trước sau gì, hai phụ chính vẫn bị chúng bắt, thoát đi đâu được, nhất là sau khi kinh thành thất thủ! De Courcy rất tự tin vào lữ đoàn lính Ả Rập cùng số quân ở cửa Thuận, ở Sứ quán, và y rất khinh thường quân binh của ta! De Courcy là một tay cực kì tham công, hám của. Y quyết phải đánh bại kinh thành, chiếm hẳn hoàng cung. Danh tiếng y sẽ lừng lẫy khắp nước Đại Nam, khắp nước Pháp cũng như ở nhiều nước khác nhờ chiến công này. Và chiếm được hoàng cung, dẫu sao ở đấy cũng còn khối của quý, bảo vật lẫn vàng bạc. Y sẽ giàu to, ngoài số chiến lợi phẩm phải chở về cho chính phủ Pháp. Như thế, ngon ăn hơn là chỉ âm thầm bắt cóc hai phụ chính. Vào đến Huế, quan sát địa hình, cách bố phòng kĩ lưỡng nhưng thiếu hiện đại ở kinh thành, y liền thay đổi ý định là không chỉ bắt cóc hai phụ chính một cách giản dị! Đời làm tướng, mấy ai có dịp may đánh chiếm kinh đô một nước! Đây sẽ là chiến công làm nên sự nghiệp lớn! Thật uổng và thật ngu nếu bỏ lỡ dịp may hiếm có này!
Vì suy nghĩ như thế, nên y quyết định chỉ khiêu khích là chính, chứ chẳng bàn thảo gì!
- Các quan làm gì mà đề phòng quá thế? – De Courcy hỏi, nhếch bộ râu mép đỏ quạch và cười –.
- Quan đô thống có thể tự trả lời! Nhân dân Huế và chúng tôi cũng không hiểu tại sao phái đoàn Pháp trình quốc thư lần này mà lại lắm quân binh, súng đạn, tàu chiến đến thế? – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường hỏi ngược lại –. Tục ngữ Đại Nam có câu “bánh ít trao đi, bánh chì trao lại”. Bản chức vẫn ước ao rằng sự giao hảo giữa hai nước không cần tới quân đội, tàu chiến, đại bác và lưỡi lê! Đấy là câu trả lời!
- Danh tiếng của ngài đệ nhất phụ chính quả là không sai lệch với sự thật. Ngài trách chúng tôi khá đau đấy! Nhưng thôi, bây giờ cho tôi hỏi: Ai đây là quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết?
Đại thần Phạm Thận Duật thấy quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nhường lời, nên vội đáp:
- Quan đệ nhị phụ chính bị ốm, không thể có mặt hôm nay.
De Courcy cười nhạt, và bỗng cau có:
- Bệnh cũng phải võng sang! Tôi những muốn cho lính qua võng Tôn Thất Thuyết sang đây kia (34)! – De Courcy bỗng thấy mình bất nhã quá đáng, ngay cả những tên Pháp bên cạnh y cũng giật mình, nên y vội nói chữa –. Ở đây có bác sĩ Mangin. Hay tôi sẽ cho Mangin sang chữa cho đức ông Tôn Thất Thuyết (34)?
Đại thần Phạm Thận Duật nói:
- Quan đệ nhị phụ chính nhiều lần từ chối thuốc Tây và bác sĩ Tây y! Xin cảm ơn. Để khi phái đoàn về triều, tôi sẽ hỏi lại quan lớn Tôn Thất Thuyết.
- Thế thì xin thôi. Bây giờ tôi xin phái đoàn Đại Nam bàn định cho nghi thức để tôi trình quốc thư trong ngày mai. – De Courcy chuyển vấn đề –.
Các quan tham biện trình bày rõ nghi thức:
1. Đi cửa giữa Ngọ môn, chỉ có quan đô thống;
2. Quân lính và các quan khác đi vào theo hai cửa hai bên, không được mang vũ khí (34);
3. Quan đô thống khi vào trình quốc thư ở Điện Thái hoà, phải đứng lại tại hàng cột thứ nhì, bên phải. Ở đấy, sẽ có một quan đại thần nhận quốc thư của chính phủ Nước Cộng hoà Pháp. Sau đó chính đại thần ấy sẽ đặt trên ngự án trước ngai vàng.
De Courcy tỏ vẻ không bằng lòng:
- Sứ Trung Hoa ngày trước sao, sứ Pháp bây giờ vậy. Không thể coi thường tôi như thế (34)!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường mỉm cười nhã nhặn:
- Quan đô thống ứng xử như sứ thần Trung Hoa đối với chúng tôi thì đâu có mấy chục năm chiến tranh như vừa rồi. Mấy trăm năm qua ở kinh đô Huế làm gì có khâm sứ nhà Thanh thường trực! Nhà Thanh nào “bảo hộ” được Đại Nam! Nhưng thôi, vấn đề này nói mãi cũng nhàm. Về nghi thức trình quốc thư, bản triều nhân nhượng, nể nang lắm mới thế. Mong quan đô thống và phái đoàn Pháp đừng quá câu nệ!
Vốn muốn khiêu khích để gây chiến, với mục đích lập công to, cướp của nhiều, De Courcy vẫn ngang ngược yêu sách này nọ một cách vô lí. Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường hiểu rõ tim đen của y ngay tức khắc. Ông đã cố nhẫn nhịn, nhưng thấy De Courcy cứ cố tình xúc phạm; vả lại, không thể không đi nước cờ chót, nên ông tỏ ý cho các quan mang lễ vật ngoại giao của chính Từ Dũ thái hoàng thái hậu trao tặng cho De Courcy (35). De Courcy thừa biết Từ Dũ thái hoàng thái hậu là bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam này, nhưng y vẫn phách lối từ chối! De Courcy chỉ mơ ước đánh chiếm kinh thành Huế và hốt sạch của cải, báu vật trong cung cấm, nội đình! Đúng là món quà Thiên Chúa sắp tặng y lớn lao, lẫy lừng, kếch sù biết chừng nào! Một đời làm tướng, còn mơ tưởng gì hơn! Sá gì chút quà mọn của bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam cõi Viễn Đông! Y tự nhủ, De Courcy này sẽ chiếm trọn cả Đại Nam này cơ! Chưa bao giờ y khoái trá đến thế! Ngay chỉ việc tưởng tượng sau khi chiếm được kinh thành, y đã quá khoái trá rồi!
Sự từ chối quà tặng của Từ Dũ thái hoàng thái hậu với thái độ phách lối đầy khiêu khích của De Courcy là xưa nay chưa từng có đối với một tên người Pháp thực dân nào! Philastre đã xúc động như thế nào khi nhận được tấm lụa có thủ bút vua Tự Đức. Philastre đã xem đó như bảo vật muôn đời của dòng họ y (36). Thế mà, De Courcy dám khinh cả quà của Từ Dũ thái hoàng thái hậu!
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói từ tốn:
- Như thế, bản chức không hiểu quan đô thống đến đây để làm gì. Hay là triều đình Đại Nam phải nhờ khâm sứ De Champeaux điện về Paris, để giám quốc Pháp cử đại quan khác thay đô thống De Courcy đây? Chẳng lẽ chỉ vì cá nhân quan đô thống De Courcy mà quan hệ ngoại giao Pháp – Nam trở nên hỏng đi, xấu đi?
De Courcy tái mặt, rồi đỏ lựng. Chiếc cổ của y phập phồng như cổ một chú gà cồ. Y cảm thấy hơi run trong lòng. Y chợt nhớ, chính Bộ Chiến tranh Pháp cũng không tán đồng lắm việc dùng vũ lực súng đạn tại kinh đô Huế. Y bỗng thấy viên đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường kia thật đáng sợ.
De Courcy im lặng một lát, liền quyết định làm liều một phen, và muốn thế thì phải làm nhanh, kẻo trễ mất. Y nói:
- Tôi nói thật, đã đến lúc không thể không nổ ra chiến sự. Tôi thừa biết quan đệ nhị phụ chính ở nhà để chuẩn bị tấn công chúng tôi. Cũng chưa bao giờ quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường cùng phái đoàn sang Sứ quán này với quân binh hộ tống có đầy đủ vũ trang như vậy. Chính khâm sứ De Champeaux hồi nãy có nhận xét thế! Và mọi nội dung bàn định sáng nay đều không đi tới đâu! Thế thì chỉ có thể giải quyết vấn đề bằng súng đại bác mà thôi. Ngoài ra, tôi yêu cầu thêm, tôi chả cần gì thứ danh hão là quà của Từ Dũ thái hoàng thái hậu, bậc đệ nhất mẫu nghi thiên hạ tại nước Đại Nam này! Tôi chỉ cần một món quà có giá trị ở bất kì thị trường nào, đó là ba chục ngàn (30.000) thỏi vàng, hai trăm ngàn (200.000) thỏi bạc, hai trăm ngàn (200.000) quan tiền [Mễ Tây Cơ (?)]. Nếu chỉ trong ba ngày, nộp đủ số tiền ấy, có lẽ sẽ yên cả đôi bên. Đó là tiền chiến phí phải bồi thường trước, hoặc chỉ là quà tặng, đó là còn tuỳ các ngài!
Phạm thượng, ngạo ngược, phách lối đến thế là cùng! Thật không còn gì để nói!
Đứng dậy, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường nói lời cuối cùng:
- Tất cả các vấn đề sáng hôm nay đã nêu ra, bản chức sẽ về bàn lại với đức vua, triều thần và hoàng thân. Đề nghị vấn đề tạm gác lại. – Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường cố gắng giấu nỗi căm giận, lại mỉm cười tỏ vẻ thân thiện và điềm tĩnh, cái mỉm cười vốn rất nổi tiếng của ông về ngoại giao. Ông nói –. Cuối cùng, bản chức chỉ có một đề nghị cụ thể, thiết thực, có thể làm ngay được, chỉ vì lịch sự, vâng, chỉ vì lịch sự, rằng quan đô thống vui lòng nghiêm cấm quân lính của ngài vào trong kinh thành, gây xáo trộn nhân tâm, nhất là các phủ đệ có công chúa, tôn nữ (38). Cũng xin nói rõ, các công chúa, tôn nữ nước Đại Nam không có lệ cấm cung, nhưng cũng không hẳn không cấm cung… Tôi mong rằng nền văn minh Pháp nên được thể hiện ở khía cạnh lịch sự này. Và chỉ thế thôi.
Phái đoàn Đại Nam liền chào ra về.
Khi đã về đến Nha Thương bạc một cách an toàn, phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và đình thần thấy việc quân binh được chỉnh đốn, chuẩn bị vũ khí, sẵn sàng chiến đấu, giải cứu của ông và phụ chính Tôn Thất Thuyết là rất hiệu quả. Hơn nữa, trong trường hợp đối phó với mưu kế “mời đến để bắt giam”, đó cũng là cách thị uy, tạo thanh thế để De Courcy phải chùn tay, không thể làm càn. Và đâu chỉ thế, ta phải thị uy, tạo thanh thế bởi còn nhằm đối phó với âm mưu đánh chiếm kinh thành, chúng đang khích tướng để thực hiện! Cho nên, rất đúng khi Tôn Thất Thuyết phải cho Quân Phấn nghĩa bảo vệ mình, “lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát, chỉnh đốn những đồ khí giới” (39) . Một lần nữa, [phụ chính Nguyễn] Văn Tường với đình thần cho rằng: “Đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy”” (39) .
Tiếng ve vẫn đang sôi lên trong nắng tháng năm mùa hè.
Về sau, sự kiện buổi sáng hôm ấy được ghi chép vào sách sử một cách hết sức ngắn gọn:

“NGÀY ẤT MÃO, KINH THÀNH CÓ VIỆC” (39).

“TÔN THẤT THUYẾT KÈM VUA, VÂNG MỆNH BA CUNG [:TAM CUNG], NGỰ GIÁ CHẠY RA MIỀN BẮC” (39).

“Trước đây, đô thống tướng Pháp là Cô Ra Xy [De Courcy] đến Tòa Sứ xin dâng quốc thư làm lễ vào chầu yết, nhưng tức [:thông tư] trước, [mời hai phụ chính] Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng tắt sang Sứ quán hội thương. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết thác cớ không đi. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường một mình cùng [thượng thư Bộ Hộ] Phạm Thận Duật đi. Tướng [De Courcy] ấy không nghe, cố mời [phụ chính Tôn Thất] Thuyết. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết sợ đi, hoặc có việc gì xảy ra chăng; sau bèn không đi.
Ngày thường [phụ chính Tôn Thất Thuyết] cho Quân Phấn nghĩa làm tự vệ cho mình, lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát chỉnh đốn những đồ khí giới. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường với đình thần cho rằng: Đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy” (39)


6

Trận chiến không thể không xảy ra ngay tại kinh đô Huế! Đó là điều phụ chính Nguyễn Văn Tường và hoàng thân, đình thần đều thấy rõ. Có nhiều người cảm thấy lo âu, nhưng không thiếu những người cố giữ bình tâm để dũng cảm đương đầu.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường về đến Nha Thương bạc, liền từ giã nhưng thành viên của phái đoàn, lên kiệu đến ngay dinh thự của phụ chính Tôn Thất Thuyết. Đi cùng ông, có các viên tuỳ tùng.
Để ứng cứu phái đoàn ta sang Sứ quán, phụ chính Tôn Thất Thuyết đã đích thân nai nịt ra tận chốt chặn, tuy có cải trang thành một viên quản cơ. Ông cũng mới từ một chiến thuyền ở ngã ba sông Hương – sông Đông Ba, lên ngựa trở về Bộ Binh. Ông hết sức mừng rỡ khi trông thấy vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau khi thi lễ chào nhau, hai quan phụ chính vào ngồi kề nhau trên chiếc trường kỉ, để tiện bàn việc với giọng khe khẽ, đủ hai người nghe. Phụ chính Nguyễn Văn Tường kể những gì đã diễn ra ở Sứ quán lúc nãy. Ông kết luận:
- “Đến nước này, chúng ta không sao chịu nổi, thôi đành liều may rủi với trời” (40) .
Phụ chính Tôn Thất thuyết không kìm nổi niềm phẫn uất từ bao năm chất chứa nhưng phải tự đè nén trong tim. Tuy vậy, giọng ông vẫn phải giữ lễ với vẻ từ tốn:
- “Binh lính của chúng ta đều đã sẵn sàng, chỉ cần hành động gấp để bọn chúng không kịp trở tay. Ngoài Bắc chúng đã chiếm cứ Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, [rồi gần hai năm] nay, đến cửa Thuận! Nếu ta bó tay ngồi nhìn giặc Tây hoành hành thì còn gì là cơ nghiệp nữa! Tôi sắp đặt thế này: Mặt tiền quan hệ hơn cả thì đã có lính Long Thuyền, Võ Sinh, đều tinh thông võ nghệ. Trong hoàng thành do lính Cẩm Y và Kim Ngô chống giữ. Bọn mới tuyển cho đóng ở phía sau. Cửa Đông Ba có năm (5) vệ, đóng dọc về thẳng Trường Định. Tại cửa An Hoà có năm (5) vệ, cửa Hậu, năm (5) vệ. Cửa Tả có vệ Hổ Oai, chọn lựa những đứa thiện chiến. Cửa Chính Tây đã có đội Hùng Nhuệ giữ. Trong và ngoài thành đều có voi, mỗi con hai nài, súng đại bác bố trí khắp nơi. Bên kia sông, phía trước lầu sứ, lính Long Thuyền, Phấn Nghĩa chuẩn bị sẵn, hễ nghe hiệu lệnh là xung phong vào các trại để tàn sát lính Pháp” (40).
“Hai quan phụ chánh mật đàm mọi việc ổn thoả, chỉ chờ cơ hội là thực hiện” (40) .
“Cuộc bang giao Việt – Pháp đi lần đến chỗ sụp đổ. Về phía Đại Nam, như [quan dân] ta thấy, chuẩn bị chiến cuộc từ lâu. Triều đình cũng như sĩ phu, dân chúng đều muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Đất nước, nhưng tự liệu lực lượng, thấy khó địch nổi nên phải ẩn nhẫn để chờ thời. Nay như thuốc nổ bị châm ngòi, tức lòng nên phải nổ. [Phụ chính] Tôn Thất Thuyết lo sợ, chưa biết quân Pháp đến bắt mình lúc nào! Nên suốt cả ngày hai mươi mốt và hai mươi hai tháng năm, năm Ất dậu (03 – 04.7.1883), hai quan phụ chánh chuẩn bị công việc hoàn tất. Muốn tăng gia sức lực chiến đấu, [phụ chính] Tôn Thất Thuyết ra lệnh mở rộng cửa nhà lao, chặt xiềng, tháo gông, tha tội cho các phạm nhân, cho bọn chúng tiền bạc, cơm rượu và [khuyến] dụ bọn chúng cầm khí giới quyết tâm giết giặc.
Công cuộc sửa soạn nằm trong vòng quân cơ bí mật. Tuy thế, giám mục Caspar vẫn biết được và tin báo cho tướng De Courcy hay. De Courcy tự phụ ở binh sĩ, ở súng ống của mình nên xem thường, không buồn lưu ý” (40)
.
Caspar (41) là một tên gián điệp đội lốt thầy tu? Có lẽ chính xác hơn, y là một tu sĩ đã được phong đến chức giám mục, nhưng bản chất thực dân của y cũng đã tu luyện đến mức cáo già. Caspar thường trú tại chủng viện và giáo đường Kim Long, chỉ cách góc bờ kinh thành phía tây nam khoảng trên hai dặm ta (hơn một km). Y có một mạng lưới tình báo viên trung kiên là những giáo dân tại Huế và tại các nơi khác chuyển đến Huế, thường xuyên báo cáo cho y tin tức dò thám, nhưng ít khi trực tiếp tại nhà riêng trong khuôn viên thuộc giáo đường, mà chủ yếu là qua các buổi xưng tội tại nhà thờ. Lúc có tin khẩn cấp, kẻ giáo dân phản quốc làm tình báo nào đó liền vờ phạm tội trọng, đến xin được xưng tội ngay, kẻo nhỡ chết bất ngờ, chưa kịp được giải tội, sẽ bị sa hoả ngục. Hai hôm vừa rồi, giám mục Caspar cũng ngồi toà nghe xưng tội kiểu đó đến ba lần cho ba tên tình báo viên cốt cán. Sau đó, y cho một vài linh mục của y sang Sứ quán gặp De Courcy, De Champeaux với hình thức là đi tuyên uý, với cuốn Thánh kinh và tràng chuỗi Mân côi trên tay, cũng ngồi toà “dã chiến” để “giải tội” cho hai tên Pháp ấy.
Bọn thực dân cố đạo, viễn chinh ấy đã lợi dụng và làm hoen ố tôn giáo, đức tin tôn giáo ngây ngô đến mức ấy!
De Courcy thu thập hết mọi tin tình báo từ Caspar, và y không thể không cảm thấy tự phụ, chủ quan về súng ống tối tân nhất nhì Âu Mỹ của quân lính do y thống lĩnh. De Courcy vẫn phần nào không tin hai phụ chính sẽ dám chủ động tấn công. Y đang mải mê nghĩ cách nào để y ra lệnh tấn công trước, buộc quân triều đình Đại Nam sẽ phản công, nhưng rồi y sẽ đổ ngược lỗi cho quân Đại Nam gây hấn trước, và không ai có thể trách cứ gì y được.
Chiều ngày hai mươi hai tháng năm Ất Dậu (04.07.1885), De Courcy vẫn tiếp tục theo dự định, như lời mời đã nhắn gửi cho các sĩ quan ở Mang Cá (Trấn Bình đài) và ở ngay sau Sứ quán, là vẫn tổ chức một bữa tiệc ngay tại Sứ quán này. Dĩ nhiên y vẫn thừa khôn ngoan để bố trí một số tên sĩ quan khác túc trực ở các đơn vị quân lính.
Đêm ấy, sân Sứ quán sáng rực đèn. De Courcy nâng li rượu vang sóng sánh hơi men, nhếch bộ râu mép đỏ quạch, cố cười thật tươi và đầy tự tin:
- “Trong cái sự nghiệp võ bị, xưa nay tôi vẫn được rạng rỡ luôn. Dù đi đến đâu, ngôi sao của tôi cũng không mờ. Hôm nay nó càng rạng hơn nữa!…” (42) . Nào, xin mời tất cả nâng li!
De Courcy và đám sĩ quan đều uống ực một hơi, cạn li.
Suốt buổi tiệc không kéo dài, De Courcy và De Cham-peaux thật ra đang cố giấu nỗi âu lo bị tấn công bất ngờ, và lạnh người khi tự nhận thấy chính bản thân y quá chủ quan khinh địch, nhưng vẫn gắng làm ra vẻ tự phụ. Hai tên thực dân này hẳn không thể không tưởng tượng ra cảnh những trái đạn đại bác sẽ bất thần rơi xuống bàn tiệc hoặc trúng ngay đầu chúng. Đạn đại bác Đại Nam không nổ văng miểng, nhưng không thể không vỡ đầu, sụm vai, nát đùi nếu trúng phải! Do đó, hai tên De Courcy, De Champeaux cố ý lựa chỗ ngồi an toàn nhất, ấy là dưới mái hiên đúc. Và cả hai nhanh chóng rút vào nhà, sau khi chúc đám sĩ quan cứ vui vẻ với rượu thịt.
Khoảng hơn mười một giờ khuya (đầu giờ tí, canh ba), số sĩ quan đóng tại Mang Cá ra về. Theo quân luật lúc này của triều đình Đại Nam, về ban đêm, tàu thuyền không được đi dọc các sông hộ thành. Bọn sĩ quan Pháp, Ả Rập này chỉ được đi thuyền ngang sông Hương, rồi sau đó, phải đi bộ về Mang Cá. Khi ngang qua cầu Thanh Long, dọc đường song song với sông đào Đông Ba, phía trái kinh thành, chúng nghe tiếng súng nổ sau tiếng hỏi lớn: “Ai? Đi đâu vào giờ khuya?”, và tiếng trả lời là những tiếng chửi thề, như trỏ cái tục tĩu chẳng hạn, cất lên từ trong số sĩ quan ấy. Chúng liền nhoài người lao sang hai vệ đường, có tên xuống tận mép nước bờ sông. Có tên rút súng bắn trả. Nhưng lại có lệnh hô cấm bắn giả vờ của một tên sĩ quan Pháp, sau tiếng hô cấm bắn giả vờ của viên suất đội Đại Nam, lẫn tiếng hô hoán rằng bọn Pháp tấn công kinh thành, rằng quân Đại Nam tấn công quân Pháp trước… Ngẫu nhiên lại trùng kế! Cả hai bên đều giả vờ cấm bắn để giành lấy lợi thế về sau, ấy là có cớ để đổ tội “gây hấn trước” (vi phạm “hiệp” ước trước) cho đối phương!
Súng nổ vang một hồi rồi im bặt, sau hai tiếng hô cấm bắn ấy, vì không thấy đại quân Pháp ứng cứu để nổ ra trận chiến lớn, và cũng vì đại quân của chưởng vệ Trần Xuân Soạn, tham biện Tôn Thất Lệ chưa kịp chuẩn bị xong. Hai vị này không ngờ bọn Pháp ở Sứ quán lại bãi tiệc sớm đến thế! Toán lính Đại Nam đành hậm hực cho bọn Pháp đi. Sự thể như thế cũng lại vì một lẽ khác, bọn Pháp này, sau khi không thấy đại quân ứng cứu, tấn công, chúng đã xưng rõ quốc tịch, danh hiệu đơn vị.
Bọn Pháp liền đi rải ra, từng nhóm hai, ba người, cách quãng nhau. Chúng hiểu De Courcy chỉ muốn quân Đại Nam thật sự “gây hấn trước” một cách rõ ràng hơn!
Thế là kế “quy lỗi ai bắn trước” đã hỏng! Bọn Pháp gọi cầu Thanh Long là cầu mưu sát (Pont de L’Attentat), khởi từ việc ấy (43).
Từ lúc đó cho đến hơn hai tiếng đồng hồ sau, kinh thành Huế vẫn chìm trong đêm yên tĩnh.
Cho đến nửa khuya về sáng…
“Đêm ngày hai mươi hai (22) tháng [năm (5)] ấy, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngầm chia quân các dinh vệ làm hai đạo: Một đạo sai em là [Quảng] Trị [Sơn] phòng tham biện Tôn Thất Lệ cai quản. (Tôn Thất Lệ nguyên ở [Sơn] phòng, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết sức về). Nửa đêm, [đạo quân ấy] sang đò sông Hương, hợp cùng với bọn thủy sư đề đốc [Lưu Cung] và hiệp lí [thuỷ sư Cao Hữu Sung] đánh úp Tòa Sứ.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết cùng với bọn Phấn Nghĩa chưởng vệ là Trần Xuân Soạn làm một đạo đánh úp Trấn Bình đài, doanh nam Pháp [:Mang Cá].
[Phụ chính] Nguyễn Văn Tường không biết chi hết.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết phân bổ [các cánh quân] xong, bèn ở lúc đầu trống canh tư [:00 giờ 45 phút] (tức ngày hai mươi ba [23]) bắt đầu nổ súng ở đài Trấn Bình, tiếng kêu vang động.
(Khi ấy [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở Bộ Lại, đương ngủ. Binh Bộ thự tham tri là bọn Hoàng Hữu Thường nghe tiếng súng nổ, tức thì đến gõ cửa báo [tin cho phụ chính Nguyễn] Văn Tường biết. [Phụ chính Nguyễn Văn] Tường [thức] dậy, [tỏ vẻ lo] sợ nói: “Nguy rồi!”. [Ông] bèn vội vàng gửi tâu xin mở cửa Hiển Nhân [của hoàng thành] và cửa Đại Cung [của Tử Cấm thành], chạy vào Tả vu, nhưng không biết làm thế nào)” (44)
.
Thật ra, phụ chính Nguyễn Văn Tường cảm thấy mình thật vụng về trong vai trò một đại thần “không biết chi hết” (44) về cuộc tấn công Sứ quán và Mang Cá. Nhưng đây là chiến trận, không chỉ nổ súng vung gươm mà còn là mưu trí với những mưu kế. Trận chiến không phải là sân cỏ chơi cầu, đấu vật với tinh thần thượng võ, vì mục đích giáo dục đạo đức, trước hàng vạn đôi mắt khán giả. Ông và phụ chính Tôn Thất Thuyết đã bàn tính với nhau, dù chưa hết lẽ, nhưng vẫn xác quyết kế sách đối phó. De Courcy, De Champeaux và Caspar muốn dùng kế li gián để chia rẽ hai vị phụ chính, dẫu chúng không dám trắng trợn như tên vua Hiệp Hoà gần đây (45), không tinh vi như Quang Trung Nguyễn Huệ một trăm năm trước (40). Những tên Pháp thực dân mấy hôm rày chỉ cố quyết đòi bắt mỗi một Tôn Thất Thuyết là nhằm kế li gián ấy. Bọn Pháp cố li gián thì hai phụ chính phải tương kế tựu kế, vờ như mắc mưu trúng kế chúng: [Phụ chính] Nguyễn Văn Tường không biết chi hết !
Thật lòng, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn âu lo có kẻ tố giác. Hơn nữa, đây chỉ là nước cờ liều, khi bị chiếu tướng. Đây là “thế hi sinh” trong môn đấu vật, có nguy cơ bị phá thế, và không tránh khỏi phải hi sinh thật, mất tất cả, từ khí tiết, danh dự đến tính mạng. Nếu không bị giặc Pháp và “tả đạo” phá thế, ông sẽ cùng quân Cần vương hất ngược chúng ra biển Đông, hay ít ra cũng khiến cho chúng dập mặt… Nhưng nguy cơ bị phá thế là rất rõ! Ông cũng ý thức rất sâu sắc, cả ông lẫn phụ chính Tôn Thất Thuyết đã ở vào thế cưỡi trên lưng hổ, tên đã ở trên cung! Nhưng tình thế quá cấp bách, cho nên biết rằng dẫu còn sơ hở, xác suất thất thế, rủi ro còn khá cao, cũng phải đành chấp nhận.
Vào Tả vu Điện Cần chánh, ông liền được vua Hàm Nghi và Tam Cung triệu vào nội cung. Ông cũng lúng túng khi bất đắc dĩ phải nói dối, và cố giấu vẻ lúng túng, kính cẩn tâu bày, chính ông cũng “không biết gì hết” về trận chiến đang xảy ra. Ông chỉ xin nhà vua và Tam Cung bình tâm, cố gắng ẩn núp thật cẩn trọng theo sự hướng dẫn của các viên thái giám và chưởng vệ Hữu quân Hồ Văn Hiển. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lại tâu:
- Thưa Tam Cung và muôn tâu hoàng thượng, dẫu sao, sĩ dân, quan chức cả nước, nhất là ở kinh thành, chứ không phải riêng thần và quan tướng quân phụ chính, đều thấy rằng bọn Pháp lần này cố quyết bức bách triều đình ta. Chúng bức bách bằng cách đem quân binh vào với số lượng khá nhiều, vũ khí mới nhất của Âu Mỹ, và bằng cách ngạo mạn, phách lối đến mức phạm thượng, dám từ chối cả tặng phẩm của đức thái hoàng thái hậu, dám ngang ngược đòi chiến phí trước khi đánh chiếm kinh thành. Như thế, không thể không xảy ra chiến trận ngay tại kinh đô được. Thần vẫn nhớ bài dụ cuối cùng của đức Dực tông Anh tiên đế: “Vả lại, thế cưỡi hổ đã thành. Ta không tính [:đánh] chúng, chúng cũng tính [:đánh] ta. [Ai] tính [:đánh] trước được thì thắng. Nên cùng lòng, hợp sức tính [:đánh] ngay, khỏi đến nỗi đắp núi còn thiếu một sọt đất. Trẫm hàng ngày mong mỏi các ngươi nên hết lòng tính [:đánh] ngay mới được” (46) . Thần xin mạo muội tâu rằng, chiến trận không khỏi xảy ra, thì ta nên đánh trước để chiếm thế thượng phong. Nhưng dẫu quan tướng quân phụ chính đánh trước thì cũng do chúng bức bách ta trước mà thôi.
Và rất chân thành, phụ chính Nguyễn Văn Tường khiêm tốn nhưng rất cương quyết xác định ý thức trung quân của một đại thần phải như thế nào trong sự biến hiện đang xảy ra. Sau đó, ông xin được phép ra phía sau cửa Hoà Bình, đến khu vườn sau khuôn viên Đại nội để hỏi xem tình hình chiến trận ở đệ nhị phụ chính, thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết.
Hai phụ chính đã gặp nhau. Bấy giờ tướng quân Tôn Thất Thuyết đang điều khiển hai mũi tấn công, Sứ quán và Mang Cá. Các viên giao liên giữa hai mặt trận với bản doanh tổng chỉ huy cứ theo đường đi dây chuyền của những con thoi chạy qua chạy lại ở các cung trạm. Từ Mang Cá về đến khu vườn sau cửa Hoà Bình này cũng có đến năm, bảy trạm chuyển tin như thế. Từ Sứ quán về đến đây tuy gần hơn, nhưng phải qua một con sông Hương khá rộng, cũng đã có các trạm chuyển tin tương tự.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường không muốn để một vài viên quan và số lính cùng các thị vệ ở gần đấy hiểu rõ, nên ông không nói gì nhiều, ông chỉ cần biết tình hình chiến trận diễn biến như thế nào, thắng hay bại, để thực hiện phương án thích hợp mà ông đã bí mật bàn với phụ chính Tôn Thất Thuyết.
Trong khi đó…
“Quân Pháp đóng cửa chặt, lẻn nấp đợi sáng, nhưng [chúng vẫn] từ từ nổ một, hai tiếng súng lớn.
([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết khi ấy ở vườn sau điều khiển.
[Chưởng vệ Trần] Xuân Soạn ủy [nhiệm] người báo cho [bọn Pháp ở] Đài Trấn bình biết quân Pháp [ở Sứ quán] đã bị súng ta bắn chết hết rồi. Tiếng súng lớn [ở Sứ quán] bắn, [bọn Pháp ở Đài Trấn bình] tưởng là súng quân Pháp ở ngoài sông Đài Trấn bình bắn vậy).
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại sai vần súng lớn lên thành, chỉ [nòng súng] bắn Tòa Sứ. ([Toà Sứ] cũng bị phá vỡ hai nơi). Đạo quân Tôn Thất Lệ cũng phóng súng bắn cháy các nhà tranh gần Tòa Sứ.
Tới lúc sáng rõ [khoảng năm giờ sáng], quân thủy lục của Pháp đều họp súng lớn, xe máy để ở trên đài [tàu] và trên [bệ] cột buồm tàu, bắn liền mấy tiếng, ầm ầm như sấm. Và đạn bay rơi xuống, [khiến quan ta] bị thương, trúng [miểng] chết khá nhiều. Và [đạn] rơi vào các cung điện, nhà cửa ở trong hoàng thành và cung thành, gián hoặc [:cách quãng, đạn] có xuyên hoại.
Bọn lính Pháp lại chia nhau từng toán, đem súng tay ngang ngược bắn phá.
Hai đạo quân ở trong và ở ngoài của ta bị tan vỡ cả.
Trong thành rối loạn)” (47)
.
Trận chiến đó còn được ghi nhận lại bởi một sử gia hoàng tộc về sau một cách tỉ mỉ hơn qua nhiều thao tác, công đoạn khảo chứng…
“Tại Mang Cá, hai đại đội bộ binh của người Phi châu, ba trung đội thuỷ quân lục chiến; tại khu đất nhượng địa trong thành gần Mang Cá: hai đội lính Phi châu, một trung đội thuỷ quân lục chiến và pháo đội; tại Tòa Khâm: hai đại đội thủy quân lục chiến; phía bắc Mang Cá có hai pháo hạm Javơlin (Javeline) và Briônvan (Brionval) và một chiếc tàu nhỏ. Tổng cộng cả thảy ba mươi mốt (31) sĩ quan, một ngàn ba trăm tám mươi bảy (1.387) binh sĩ và mười bảy (17) cỗ đại bác.
Sau buổi dạ hội náo nhiệt, quang cảnh lần lần trở lại yên tĩnh. 11 giờ 30 ai nấy đều ra về.
Toà Khâm và Mang Cá đang chìm đắm trong giấc ngủ. Bỗng nhiên vang lên tiếng đại bác và tiếng reo hò vang dậy. Những trại lợp tranh của lính ở bị những bó đuốc của quân ta xung phong vào đốt, bốc cháy dữ dội. Hăng hái nhất là lính Phấn Nghĩa, tức là lính của [phụ chính] Tôn Thất Thuyết mộ làm tay chân, cùng những phạm nhân ở lao Thừa Thiên và lao Trấn Phủ được thả ra để đái công chuộc tội. Họ mang súng hoặc đại đao, mã tấu, mình trần trùng trục, tóc bỏ xoã xuống ngang gối. Đạo quân đánh vào Tòa Khâm do Tôn Thất Liệt [:Lệ], em của [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, cùng quan thủy sư đô đốc [Lưu Cung], thuỷ sư hiệp lí [Cao Hữu Sung] chỉ huy; còn cánh quân đánh vào Mang Cá thì đề đốc [đã được thăng chưởng vệ] Trần Xuân Soạn và [phụ chính] Tôn Thất Thuyết tự thân hành đốc suất. Một viên đại bác từ pháo đài ta trên cửa thành bắn sang làm thủng một lỗ lớn trên nóc Tòa Khâm. Tường và mái đều bị xuyên đạn. Nhà kho, nhà vệ sinh sụp đổ và bốc lửa. Đại uý Bruynô (Bruneau), pháo binh hải quân, bị một viên đạn xuyên qua ngực, ngã ra chết, đại uý Bruanh (Brouin) của đội binh châu Phi gãy mất hai ống chân, tử trận. Hai sĩ quan Hétsen (Heitschell) và Lacơroa (Lacroix) bị thương nặng.
Quân Pháp đã bảo vệ được kho khí giới, đạn dược và lương thực. Nhưng quân trang thì bị cháy sạch đến nỗi viên tiểu đoàn trưởng Métdingê (Metzinger) suốt cả ngày 05.07 [1885], chỉ mặc có một cái quần đùi, mãi đến tối mới kiếm được một cái quần dài, nhưng lại thiếu kéo, phải dùng đến dao để hớt bớt cho vừa.
Do một cái cửa ăn thông qua trại, một trăm sáu mươi (160) binh sĩ của Pháp kéo vào Tòa Khâm. Chính tướng [giặc] Cuốcxy đã điều khiển toán quân này, đăït mỗi cửa sổ hai người bắn ra để chặn đứng những đợt xung phong của lính Việt.
Một điều may mắn cho Pháp là Nhà Bưu điện cách Toà Khâm vào lối ba trăm (300) thước không bị hư hại gì cả, nên tướng [giặc] Cuốcxy (De Courcy) cho đánh điện gọi lính ở Hải Phòng cấp tốc vào Huế và gọi lính ở Thuận An kéo lên” (48)
.
Do sự cẩn trọng của tên tướng De Courcy, Nhà Bưu điện hẳn được y bố trí một số lượng quân khá lớn để bảo đảm đường dây điện báo liên lạc. Tướng quân phụ chính Tôn Thất Thuyết hẳn quyết cắt đứt, phá tan ổ liên lạc điện báo ấy để bọn Pháp không thể gọi quân tiếp viện, nhưng dĩ nhiên ông lại phải tập trung binh lực vào mũi tập kích Sứ quán, do đó đội quân với số lượng không nhiều tấn công quyết phá huỷ Nhà Bưu điện đã bị bọn Pháp đông hơn, hoả lực mạnh hơn, đánh bật ngay từ vòng ngoài.
Ở Sứ quán, tất cả quân binh của tham biện Tôn Thất Lệ, hiệp lí thuỷ sư Cao Hữu sung và thuỷ sư đô đốc Lưu Cung ào ào tiến công như vũ bão giữa những đợt đại bác dập xuống.
“Ban đầu súng đại bác của ta bắùn không lấy gì làm trúng đích, nhưng về sau đã tàn phá được nhiều nơi, làm thủng trần, sập vách. Cả Tòa Khâm rộng lớn chỉ còn lại một gian phòng chính là đứng vững.
Tại Mang Cá, sau những phút kinh hoàng đã qua, trung tá Pécnô (Pernot) và thiếu tá Métdingê chia quân phản công đánh chiếm kinh thành. Súng đại bác [giặc] Pháp chĩa bắn vào các ổ súng của ta. Hai pháo hạm, nhờ có ánh lửa của những túp nhà bị cháy nên đã bắn trúng vào mặt đông bắc của kinh thành. Quân Pháp ở Mang Cá, kéo vào tập trung ở khu đất mà ta đã nhượng cho Pháp từ một năm nay, rồi chia thành ba toán kéo đi tấn công các ngã, tiến vào Thành Nội. Quân ta kháng cự rất hăng nhưng sau một tiếng đồng hồ thì rút lui và tan rã hàng ngũ. Pháp chiếm được sáu cỗ đại bác hạng lớn đặt trên mặt thành rồi dùng lại những khẩu súng này để bắn lại quân ta.
Trời gần sáng, chiến cuộc vẫn tiếp diễn dữ dội nhưng quân ta thế yếu cứ lùi dần. Pháp đốt hai bộ, Lại và Binh, là chỗ ở của [hai phụ chính Nguyễn Văn] Tường và [Tôn Thất] Thuyết và các công thự, các trại lính. Gặp dân chúng chạy loạn, không phân biệt già trẻ trai gái, [giặc Pháp] đều tàn sát một cách rùng rợn, tiếng la khóc vang trời dậy đất.
Tám (08) giờ ba mươi (30) sáng, trên kì đài ta đã phất phơ lá cờ Pháp. Tiếng gọi là cờ nhưng kì thật là sợi dây thắt lưng của một tên lính Phi châu kết với hai mảnh vải.
Chín (09) giờ thì quân Pháp vào Đại nội, quân ta rút ra khỏi hoàng thành.
Pécnô phải dùng đến một tiểu đoàn canh gác cung điện, để khỏi bị cướp phá. Tuy thế, các điện đài, dinh thự khác trong hoàng thành, suốt bốn mươi tám (48) tiếng đồng hồ bị quân Pháp ra tay vơ vét. Phần nhiều trong túi tên lính Pháp nào cũng có những nén bạc cướp được của kho ta. Một phóng viên của Hãng Ava (Havas) đã nói rằng chính ông đã mua được của các tên lính ấy tám (08) kilô bạc nén cả thảy. Ông lại còn cho biết suốt trong năm ngày, năm mươi (50) người chuyên việc sắp xếp các bảo vật có giá trị không thể tưởng được để đưa về Pháp.
Theo sự ước lượng của Pháp thì quân số của ta trong trận chiến gồm hai chục ngàn (20.000) người, tử trận một ngàn hai trăm (1.200) đến một ngàn rưỡi (1.500) người.
Về phía Pháp: hai (02) sĩ quan và chín (09) binh sĩ chết; hai (02) sĩ quan và bốn (04) binh sĩ bị tử thương; năm (05) sĩ quan và bảy mươi mốt (71) binh sĩ bị thương.
Pháp còn lấy của ta được số võ khí quan trọng: tám trăm mười hai (812) khẩu đại bác, một vạn sáu (16.000) [khẩu] súng tại võ khố, vô số súng trường, gươm giáo trong Nội.
Công cuộc sửa soạn chiến tranh, hai quan phụ chánh giấu kín, không để cho vua Hàm Nghi và Tam Cung biết. Tới khi thấy rõ sự thất bại, lúc ấy mới tâu với vua và Tam Cung hay” (49)
.

7

“[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG TÂU XIN VUA VÀ XA GIÁ BA CUNG [:TAM CUNG] ĐI RA KHIÊM CUNG TẠM THỜI LÁNH LOẠN:

(Khi ấy [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường đã vào bên Tả vu [Điện Cần chánh]. Một lát, [ông] xin mở cửa Hoà Bình, đến chỗ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết điều khiển. [Phụ chính Nguyễn Văn Tường] nhìn trông [tình hình], biết là thất bại rồi, [nên] lại vào Tả vu, tâu xin vua xuất hành.
Trong khi vội vã, [ông] chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền, văn lí mật sát, và ấn kiềm, hai quả, với [vật] hạng để vàng bạc, [bảo] đồ đệ đem theo).
[Phụ chính Nguyễn Văn Tường] dùng hữu quân đô thống là Hồ Văn Hiển phù xe. Giờ thìn [07 – 09 giờ sáng] hôm ấy, [xa giá vua Hàm Nghi và xa giá Tam Cung] bắt đầu từ cửa Tây nam ra” (50)
.

Gần sát cửa Tây nam, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhìn vào bốn chiếc kiệu ngự giá. Chiếc đầu tiên là của vua Hàm Nghi, ba chiếc kế tiếp phía sau là của Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi) và hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi). Những chiếc kiệu, võng khác là của các hoàng thân, của bà Nguyễn Nhược thị Bích (người vợ giỏi chữ, thơ hay nhất của vua Tự Đức)… Bấy giờ, tiếng súng tấn công của bọn Pháp, tiếng súng phản công của ta đang nổ rền. Nhưng tiếng súng giặc vẫn phân biệt được, quả thật, đang nổ át cả tiếng súng quân ta. Nhân dân dắt díu, bồng bế nhau, nhờ các viên lính Hữu quân đang làm nhiệm vụ hộ tống xa giá, tâu xin cho phép họ ra khỏi thành. Trẻ con kêu khóc inh ỏi thật xốn xang gan ruột. Nhưng các viên lính cầm ngang cây giáo, ngọn thương, tạm ngăn lại. Không thể chần chừ, phụ chính Nguyễn Văn Tường tâu xin xa giá tạm ngừng lại trong lòng cửa thành khá rộng, để tránh rủi ro do đạn đại bác của giặc Pháp.
Không đợi ông tâu lần thứ hai, thái hoàng thái hậu Từ Dũ hỏi ngay:
- Quan quận công phụ chính đó ư? Thế trận có cầm cự được lâu không?
- Tâu, thần thấy bọn Pháp đã ồ ạt tấn công từ hai phía. Hình như quân của chưởng vệ Trần Xuân Soạn đang cố chận giặc ở Anh Danh. Còn phía Sứ quán, bọn Pháp đang vượt sông. Tình thế khó cầm cự được lâu.
- Thế thì khanh định đưa xa giá và lão cung cùng Hai Cung đi đâu? Trường thi, Khiêm lăng hay Tân Sở?
- Tình thế này, theo ý thần, Tam Cung vẫn lên Khiêm lăng như dự định, còn đức vua cứ lên Trường thi… Phải chia ra hai cánh, vì sợ chúng sẽ truy kích. Thần sẽ hội ý với quan tướng phụ chính sau về địa điểm phải xuất hạnh.
- Khanh nên vì đức vua, lão cung và Hai Cung cũng như hoàng thân, đình thần, lưu lại đây với chúng để giảng hoà (51).
Sau một thoáng ngẫm nghĩ, phụ chính Nguyễn Văn Tường liền nói với giọng cương quyết:
- Thần xin tuân lệnh. Thần cũng có ý định, nếu chúng truy kích gắt quá, thần sẽ cản hậu bằng cách đưa thư thương thuyết cho tên tướng De Courcy. Hắn sẽ phải ngừng động binh cho đến khi đức vua và Tam Cung ra đến Tân Sở. Thần cũng dám biết vị quốc vong thân. Đức vua và Tam Cung phải được bảo toàn để lo toan cho mai hậu. – Giọng quan phụ chính Nguyễn Văn Tường bỗng nghẹn ngào, nhưng ông quyết giữ vẻ bình tĩnh –. Thần xin tuân mệnh… Có thể, thần sẽ không được dịp còn sống sót để gặp lại đức vua và Tam Cung… Các quả ấn “Văn lí mật sát” , ấn kiềm, vàng bạc, thần đã trao cho chưởng vệ Hữu quân Hồ Văn Hiển, bảo ông ta hết sức chú tâm bảo vệ. Xin xa giá lên đường lên phía chùa Thiên Mụ, kẻo trễ mất. Hữu quân sẽ đi trước mở đường, đi sau để hậu vệ. Xin hoàng thượng và Tam Cung yên lòng.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường nghe có tiếng khóc từ trong các chiếc ngự giá.
Cố nén lòng lại, ông ra lệnh cho chưởng vệ Hồ Văn Hiển phù giá lên đường ngay.

“[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG VÂNG Ý CHỈ CỦA TỪ DỤ THÁI HOÀNG THÁI HẬU VÀ LƯU LẠI GIẢNG HÒA (52).

[Phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long” (52)
.

Với số quân khoảng năm chục viên, ông lên kiệu đi tắt đến giáo đường Kim Long để quyết gặp giám mục Caspar. Trong phương án cản hậu, chặn sự truy kích của giặc Pháp, ông cũng đã bàn với Tôn Thất Thuyết dự kiến này. Ông cảm thấy thật xấu hổ, vì cũng chính giám mục Caspar này đã đón tiếp Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp lúc thất thủ thành luỹ ở Thuận An! Nhưng ông tự dặn lòng, ông không bao giờ, không mảy may nào giống với hai tên quan chủ “hoà”, xu thời một cách vị kỉ đó. Ông không bao giờ đầu hàng. Nói thẳng ra, lúc này, ông chỉ trá hàng và sẽ chỉ trá hàng mà thôi. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố nén cảm giác xấu hổ ấy, để ra hiệu lệnh cho mấy viên hầu cận chỉ huy đội lính cận vệ. Ông bảo họ, một nửa phải luôn luôn đi sát ông, một nửa kia lo canh gác các cửa ra vào thuộc khuôn viên giáo đường. Ngoài ra, thấy những toán lính Phấn nghĩa nào ra khỏi thành, chạy lên đường này, phải gọi lại để bổ sung quân. Có gì bất trắc, phải kiên cường chiến đấu. Dặn xong, ông ra lệnh cho phu kiệu bước ngay.
Từ cửa Tây nam lên đến giáo đường và chủng viện Kim Long chỉ vài dặm ta.
Hai cánh cửa trước sân rộng thuộc khuôn viên giáo đường mở ra, sau khi một người lính rung chuông và trao danh thiếp của quan đệ nhất phụ chính. Trong giáo đường, các cố đạo Pháp lẫn linh mục, thầy giảng người Việt đã biết sự biến xảy ra từ lúc mới nổ súng. Cố nhiên, họ đã biết kinh thành sẽ thành trận địa từ rất lâu trước đó!
Nghe lời bẩm báo có quan đệ nhất phụ chính đại thần đến trong lúc cấp bách này, giám mục Caspar cảm thấy quá bất ngờ. Sau một thoáng bàng hoàng, y nhếch môi cười nửa miệng. Giám mục Caspar biết thế nào cũng có một viên quan đến nhờ y giúp cho việc cầu “hoà”, như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp trước đây, nhưng y không ngờ đó lại là quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đứng đầu phe chủ chiến, vốn cứng rắn, người chưa từng một lần y được gặp. Giám mục vội ra tận sân đón tiếp.
Vào phòng khách, cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung thường ngày, phụ chính Nguyễn Văn Tường nói ngay:
- Không biết giám mục vui lòng hay phiền lòng khi tôi đến đây? Hiện tại là sự biến bất ngờ. Tôi chưa rõ, nhưng thôi thì cứ tạm cho là do quan tướng phụ chính nổ súng trước. Dẫu sao, tình thế rất cấp bách. Vậy tôi nói ngay, tôi cũng như đức vua, Tam Cung và hầu hết đình thần, hoàng thân đều “không biết chi hết” về sự biến đang xảy ra. Cho nên, ý định của tôi và lệnh dụ của Từ Dũ thái hoàng thái hậu là mong giám mục sẽ chuyển giúp cho ý kiến của tôi, thay mặt đức vua, Tam Cung, triều đình, kể cả hoàng tộc, nhắn gửi đến tướng De Courcy, khâm sứ De Champeaux, là tôi muốn được gặp tướng De Courcy ngay lập tức để chấm dứt sự nổ súng. – Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Đề nghị giám mục cho người truyền đạt ý kiến ấy ngay cho. Phải vội, không thì sẽ muộn mất.
- Vâng, nhưng quan phụ chính cũng nên viết vài chữ để tôi bảo một giáo sĩ chạy qua bên Sứ quán trao cho tướng De Courcy?
- Thế thì nhờ giám mục viết luôn cho tướng De Courcy ấy. Ông ta sẽ tin ở giám mục.
- Vâng, có lẽ phải như vậy. Và sẽ có người chạy đưa thư của tôi ngay. Xin mời quan phụ chính ngồi xuống đã.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường sực nhớ mình đang đứng. Ông ngồi xuống. Lát sau, ông thấy giám mục Caspar viết một bức thư có nội dung như ông vừa nói với ý định cố giữ sự hoà hảo giữa hai nước trong tình hình này thì tốo”hơn. Và ông còn đọc thấy, giám mục đã thể hiện rõ ý tưởng, rằng, sẽ không cản nổi một vụ tương tự như hai trường hợp Françis Garnier (1873), Henry Rivière (1883) hoặc cuộc chiến tranh lương – giáo như ở Nghệ – Tĩnh mười hai năm trước (1873 – 1874); và phụ chính Nguyễn Văn Tường hoàn toàn không chịu trách nhiệm về sự việc có thể xảy ra, nếu De Courcy tiếp tục bức bách nhà vua, Tam Cung, triều đình và hoàng thân, bởi nhân dân, sĩ phu, quan chức đã căm uất quá rồi. Sự căm uất ấy, nếu nhìn nhận một cách khách quan, là rất chính đáng. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng đã nói rõ: Người Pháp và các cố đạo Pháp sẽ bị tấn công, nếu De Courcy tiếp tục gây chiến, bức hiếp như vậy. Ý của phụ chính Nguyễn Văn Tường là mong De Courcy không nên kích động giáo dân và bọn “phù Lê” cướp chính quyền hoặc dẫn quân binh truy kích đoàn ngự giá, dồn triều đình và sĩ dân đến chỗ phải quyết chiến cho dẫu sự thể sẽ xảy ra như thế nào.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhờ viên thông ngôn, phiên dịch của mình đọc lại. Ông thấy trong bức thư ấy, đã thể hiện được một vài ý tưởng chỉ là hăm doạ De Courcy để y không truy kích đoàn ngự giá mà thôi. Đó là đòn khóa chặn âm mưu kích động giáo dân “tả đạo” và bọn “phù Lê” cướp chính quyền. Đó cũng là kế cản hậu và hoãn binh (53). Vả lại, thật ra, hơn ai hết, ông biết rất rõ toàn bộ binh lực của triều đình đã được phụ chính Tôn Thất Thuyết dốc hết vào trận tấn kích và cố thủ từ lúc nửa khuya về sáng đến lúc này. Nếu có tái diễn những trận đánh như hai vụ FranÇis Garnier, Henry Rivière thì phải dăm bảy tháng sau, nếu vũ khí, đạn dược của quân Cần vương còn đầy đủ.
Giám mục Caspar viết thêm một vài dòng tái bút:
“Tôi là giám mục Caspar, tôi chỉ viết lại những ý kiến giảng hoà của phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đang tuân theo sắc văn (lệnh dụ) của Từ Dũ thái hoàng thái hậu và đại diện cho triều đình Đại Nam. Sở dĩ tôi viết thay thư này là bởi lí do: Muốn để quý đô thống tướng De Courcy và khâm sứ De Champeaux tin tưởng” (54).
Phụ chính Nguyễn Văn Tường thúc giục giám mục chuyển ngay đến cho De Courcy.
Bảo người thân tín chạy giao thư, ngay trong lúc tiếng súng tuy đã ngớt nhưng vẫn còn nổ, giám mục Caspar tỏ ra nhiệt tình. Đúng là y rất nhiệt tình, bởi y chỉ mong nước Pháp và giáo hội của y sẽ “bảo hộ” Đại Nam một cách chặt chẽ, nghĩa là thắng lợi sắp đến nơi. Y cảm thấy rất khó khăn nếu thực hiện cho được ước muốn trước đây là lật đổ, tiêu diệt hẳn triều Nguyễn để lập nên một Nhà nước mới hoàn toàn Thiên Chúa giáo. Từ lâu, y biết phải theo kế sách “tàm thực” lâu dài, chứ không thể đánh nhanh, ăn nhanh như dự định ban đầu, ít ra là từ mấy chục năm trước, của các cố đạo, các quan tướng viễn chinh Pháp được. Và lúc này, dẫu là một tên gián điệp sừng sỏ, nhưng giám mục Caspar, y cũng chưa biết kế sách của hai phụ chính như họ đã bàn với nhau.
Chuyện trò thêm một lát, giám mục Caspar mời phụ chính Nguyễn Văn Tường dùng bữa. Quan phụ chính có một thoáng ngần ngại. Thuốc độc, biết đâu? Nhưng ông vẫn cố bày tỏ sự tín nhiệm xã giao. Vả lại, ông từng có kinh nghiệm trong các chuyến thương thuyết ngoại giao với người Pháp. Một cách khôn khéo, ông bảo ông chỉ dùng bữa theo kiểu thân tình của người Việt, chung mâm, chung tô, chung dĩa. Ông quyết mời giám mục cùng ăn. Ông chỉ ăn món nào giám mục gián điệp Caspar đã xúc, đã gắp vào chén và đã nuốt. Với kinh nghiệm sẵn có, ông vẫn ứng xử được một cách rất tự nhiên. Giám mục gián điệp Caspar tinh ý, y cũng liền bày tỏ thiện chí.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung nhưng thật ra, ông hiểu ông có thể sẽ bị bắn chết, hoặc chí ít cũng bị bắt làm tù nhân, hoặc làm con tin, ngay trong ngày hôm nay. Ông biết, trong lịch sử đã có nhiều người chết trong trường hợp oái oăm, ngặt nghèo như thế này. Nếu ông chết trong lúc trá hàng này, không ai khác, chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ thanh minh cho ông. Tôn Thất Thuyết vẫn là người hiểu rõ ông nhất, kế đó là những viên quan quân hầu cận của ông từ lâu và hôm nay, lúc này, chỗ này, tại bữa ăn này. Ông cảm thấy yên lòng, sẵn sàng đương đầu với cái chết.

8

Sau khi phụ chính “[Nguyễn] Văn Tường vâng ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại giảng hòa” (55), “[ông] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết ra sau, gặp [xa] giá, bèn một mình hộ chuyển [xa giá] đến Trường Thi (ở xã La Chử). Nhân [thế, ông] kèm [xa giá] đi ra ngoài [phía] bắc.
Thự hiệp biện đại học sĩ là Phạm Thận Duật, thự tham tri Trương Văn Đễ, và Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ đều đi theo xa giá.
(Khi đó, [đoàn] tùy [tùng và xa] giá, chỉ có xe loan [:xe vua Hàm Nghi, xe Tam Cung] và lính biền binh lẻ tẻ chầu chực, trên dưới ước một trăm (100) người. Còn dư [:số còn lại là] các dinh vệ, sau khi thua trận, đều [lập] tức tìm đường tản về quê quán).
Giờ ngọ [11 – 13 giờ], [đoàn tuỳ tùng, xa giá] mới đến xã Văn Xá [gần Huế]. Nghỉ một chút, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì kèm vâng mệnh vua, [tường thuật] đêm qua, tình hình vua phải ra đi, thông báo cho thiên hạ cần vương. [Đây là thông báo cần vương, chưa phải là Dụ Cần vương phát đi vào ngày mồng 02 tháng 6 Ất dậu (13.7.1885)]. [Ông sai phái lính trạm] lần lượt [thông] tư cho Nam Bắc tuân làm.
Ngày bính thìn [hai mươi tư tháng năm (06.07.1885)], vua cùng với xa giá Ba Cung [Tam Cung] đến tỉnh Quảng Trị; dừng nghỉ ở hành cung” (55)
.
Còn các quan ta, một số thoát ra khỏi thành được, liền lẩn tránh vào nhà dân ở các xã thôn quanh đó, một số khác tìm đường ra Quảng Trị phò vua và Tam Cung.
“(Từ thự hậu quân chưởng phủ Nguyễn Hanh, thự thống chế Ngô Tất Ninh, thự Tả quân Đinh Tử Lượng, Công bộ tham tri Tôn Thất Phan, biện lí Trần Khánh Tiến, thuỷ sư hiệp lí Cao Hữu Sung, phủ doãn Nguyễn Đình Dương, toản tu Phạm Phú Lâm cũng đều tiếp nối đến hành tại)” (56) .
Tình hình ở kinh đô Huế và riêng trong kinh thành hết sức bi đát!
“Đương lúc xa giá nhà vua đã đi rồi, quân Pháp lên kì đài treo cờ hiệu tam tài [:cờ tam sắc, tức là quốc kì Pháp]. Súng bắn vẫn còn ầm vang. Quan lại, nhân dân giành nhau tìm cửa chạy ra, rồi tự dày xéo lên nhau. [Quan và dân bị] chết và bị thương rất nhiều.
[Với lòng thù hận hai quan phụ chính], quân Pháp bèn đốt hai bộ Lại và Binh (nguyên là nơi [hai phụ chính Nguyễn] Văn Tường và [Tôn Thất] Thuyết ở đó). Và thuốc đạn, khí giới [cũng bị đốt, khói lửa] bốc lên xông trời (hai ngày đêm không tắt). [Bọn Pháp] chia giữ các cửa thành trong, ngoài, và các kho tàng, cung điện.
Ngày phát gạo kho, [bọn Pháp] thuê vát những dân còn ở trong thành và những bọn ở ngoài lẻn vào (đều là đồ vô lại, nhòm vào toan lấy đồ đạc của quan tư còn bỏ sót lại). [Bọn Pháp còn sai người] sửa đắp các trại lính làm nơi trú đóng [của chúng], và [chúng sai người] nhặt chôn, hoả táng các xác bị chết và bị nạn ở lúc trận vong.
Dưới đô thành, [nhân dân] nơm nớp sợ, chạy” (57)


9

Một trong những lí do khiến quan đệ nhất phụ chính phải có phương án “kẻ ở”, “người đi” , và chính vua Hàm Nghi, Tam Cung cũng ra sắc văn dặn ông phải ở lại “giảng hoà” , là không thể để kinh thành, nhất là hoàng thành và nhân dân Huế, phải lâm vào tình trạng bi đát hơn.
“[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường hôm ấy đã vào nhà thờ đạo Kim Long. [Ông] bèn cùng với giám mục Lộc [Caspar] thương thuyết, cùng đến Tòa Sứ trần tình, cùng bàn nỗi khổ với đô thống Pháp [De Courcy], lại xin giảng hòa” (58) .
Sự thể thực hiện phương án “kẻ ở”, “người đi”, “giảng hoà” ấy không thể đơn giản, ngắn gọn như thế…
Lúc khoảng chín giờ sáng nay, De Courcy rất bất ngờ khi một giáo sĩ cải trang làm thường dân xin vào Sứ quán. Bấy giờ, tiếng súng đã hầu như tắt hẳn ở phía hữu ngạn sông Hương. Chỉ ở tả ngạn, phía trong kinh thành, tiếng súng vẫn đôi lúc lại vang lên, mặc dù trên kì đài, cờ tam khoang xanh trắng đỏ được kết bằng dây thắt lưng với mấy mảnh vải, nghe đâu là áo của vợ tên sĩ quan Pháp hoặc Ả Rập nào đó, đã phất phơ bay.
De Courcy hết sức căm giận khi thấy sĩ quan, quân lính của y có đến hàng trăm tên bị chết, bị thương, và dinh thự nứt vỡ, đồn trại, quân trang bị thiêu rụi. Y định bụng sẽ bắn ngay viên đệ nhất phụ chính, “kẻ thù không đội trời chung” (59) với người Pháp kia. De Courcy đọc bức thư, hiểu ngay viên phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa thuyết phục, vừa hăm doạ y rằng, ông ta không chịu trách nhiệm nếu người Pháp và các cố đạo Pháp bị quân binh triều đình hoặc sĩ dân tấn công. De Courcy vừa giận, vừa âu lo.
De Courcy hỏi De Champeaux. De Champeaux vốn là một kẻ rất nhiều năm quyết “đập tan tành” thượng thư, phụ chính Nguyễn Văn Tường. Nhưng De Cham-peaux vẫn là một gã thực dân khá khôn ngoan một cách thâm độc. Y lại hiểu tình hình Đại Nam và uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường. Giết ông ta lúc này thì quá dễ, nhưng tổn thất sẽ rất lớn. Tuy nhiên, việc ông ta quay lại cầu “hoà” là một điều bất ngờ. Ông ta mà đầu hàng thật sao? Hay ông ta đang thực hiện một mưu kế nội công ngoại kích gì đây?
De Courcy và De Champeaux bàn bạc với nhau hồi lâu, để rồi chúng quyết định phải giam giữ phụ chính Nguyễn Văn Tường. Để giam giữ ông ta, phải bố trí ít ra là một trung đội quân viễn chinh canh gác cẩn mật, do tên đại uý Schmitz vốn rất thận trọng chỉ huy. Sau đó, cả hai tên đô thống, khâm sứ liền nói cho viên giáo sĩ cải trang đưa thư đến: “Hãy đợi một chốc”. De Courcy viết nhanh một lá thư ngắn cho phụ chính Nguyễn Văn Tường, rằng y đồng ý gặp để bàn chuyện “hoà”!
Gần xế trưa, phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục Caspar đi thuyền sang bến Sứ quán. Họ được mời vào một dinh cơ tiêu điều, đầy vết đạn, mùi thuốc súng và mùi cháy khét vẫn còn vướng vất, khói lửa còn ngún toả, trước đây là một Sứ quán khang trang.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường chợt nhận ra, cả hai viên đô thống, khâm sứ đều có chữ lót quý tộc là “De” (không biết dòng họ bỏ tiền ra mua hay có công lao thật sự). Ông thấy họ, sau một đêm mất ngủ, không thể không căng thẳng, không thể không mệt mỏi. De Courcy, De Champeaux ngồi đối diện với phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục gián điệp Caspar. Những người lính cận vệ luôn luôn đứng sát sau lưng quan phụ chính.
De Courcy đã có thời gian để suy nghĩ, bàn bạc với De Champeaux, nên lẽ ra, phần nào y cũng đã bớt bức xúc. Nhưng lúc này, quả thực, y vẫn không kìm nổi sự căm giận. Y nói phủ đầu để hạ nhục:
- Quan đệ nhất phụ chính đã “đem lòng cự chiến, đến đây làm gì?” (60) . – De Courcy căm giận xen lẫn với bối rối đến run cả giọng nói –. Ngài đã chống đánh chúng tôi, ngài còn đến đây làm gì?
Phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung:
- Tôi rất tiếc khi phải đến đây trong tình huống không vui, không hữu nghị như thế này. Nhưng, dẫu sao sự biến cũng đã xảy ra. Nguyên nhân xa và gần tôi đã nói với giám mục Caspar. Nói cụ thể và ngắn gọn thế này, trận chiến xảy ra là do quan tướng quân phụ chính Tôn Thất Thuyết, nếu không phải quân Ả Rập bắn trước. Tuy nhiên, điều đó dẫu sao cũng chỉ là nguyên cớ trực tiếp. Sự thật và nguyên nhân chính như thế nào, phía người Pháp, phía Đại Nam đã hiểu từ lâu, ít ra là mấy chục năm trước, từ khi người Pháp bắt đầu nổ súng vào Đà Nẵng. Còn riêng tôi, tôi không can dự gì, tôi “không biết chi hết” vào sự biến này. Tóm lại, thay mặt cho nhà vua trẻ và Tam Cung, hoàng thân, triều thần, tôi trần tình (trần thuật tình trạng) như vậy. Sự biến đã gây ra bao nhiêu chết chóc, tang thương! Thật ra, bản chất cuộc chiến tranh người Pháp tiến hành là không văn minh, là phi nhân. Dẫu các ông căm giận, tôi cũng phải nói thật như vậy. Mấy chục năm qua, Đại Nam buộc lòng phải kháng chiến vệ quốc, thế thôi. Dẫu sao, nỗi khổ cũng đã quá chất chồng rồi! Cuối cùng, tôi mong nên giữ tình “giao hảo” giữa hai nước Pháp – Nam. Như thế hẳn là tốt hơn, nhất là trong tình hình hiện giờ.
Thật sự, De Courcy, De Champeaux lúc này cũng như giám mục Caspar hồi sáng, chúng đều không tin phụ chính Nguyễn Văn Tường “không biết chi hết” vào sự biến. Có điều, như đã bàn với De Champeaux lúc gần trưa, khi mới nhận được bức thư do viên giáo sĩ cải trang mang tới, nên De Courcy vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Y cố ghìm lại cơn tức giận điên cuồng trong lòng. Y dùng ngôn từ xã giao:
- Thôi được, thưa ngài phụ chính. Tôi mong tình “giao hảo” sẽ tốt hơn giữa hai nước! Tôi cũng rất âu lo là nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ phải vất vả giữa rừng rú và chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục. Do đó, mong ngài hãy liên lạc để rước nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân về lại hoàng thành (58).
Như thế, cuối cùng, theo sự bàn bạc mưu kế với De Champeaux trước đó và sự thuyết phục của phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc này, tên “đô thống [De Courcy] ấy cũng nghe lời [“giảng hoà”], dặn phải rước ngay vua và Tam Cung hồi loan về triều” (58) .
Điều phụ chính Nguyễn Văn Tường vui mừng nhất là ông đã cản được sự truy kích của quân Pháp đối với xa giá. Nếu chúng truy kích, chắc hẳn sẽ nguy to cho đoàn ngự giá! Nhưng chúng đã không tiếp tục động binh. Đó là một điều ông thấy chính ông đã thành công.
Còn nay mai sẽ ra sao? Nay mai, chắc hẳn De Courcy sẽ ép buộc ông kí tên vào tuyên cáo đầu hàng? Ông sẽ tính toán thực hiện kế hoạch viết các tuyên cáo yết thị tại kinh hay gửi cho các quan tỉnh theo kiểu “bì lí xuân thu” (61) (hình thức ngôn từ và nội dung lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu) và phối hợp chiến với đàm như đã bàn với quan tướng quân Tôn Thất Thuyết. Hơn nữa, trước đây, vua Kiến Phúc, vua Hàm Nghi và hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã thông tư cho các quan tỉnh: Mật dụ mới là văn kiện chính thức, còn các dụ “thoả hiệp” với Pháp chỉ có tính chất đối phó với Pháp mà thôi; phải hiểu theo kiểu “bì lí xuân thu” , kiểu viết mà nhà nho uyên thâm đọc vào mới thật sự hiểu. Về phía Pháp, chúng cũng thừa hiểu tính chất “hai mặt” ấy, nhưng chúng chưa thể ép buộc triều đình Đại Nam được.

10

Aymonier, một tên Pháp năm ngoái đã nhờ khâm sứ tại Huế xin Viện Cơ mật cho phép y đi “du khảo bác vật”. Hơp Ai, một ngườiø Chăm (Ninh Thuận), bị Aymonier buộc phải tháp tùng theo y, nào ngờ để đi khuân vác các bức tượng, phù điêu, bi kí Chăm và Việt! Ông chính là tác giả bản Ariya Po Parơng (“Trường ca về quan lớn Pháp”) . Hơp Ai đã viết rõ, chính tác giả khởi hành từ tháng giêng năm Ất dậu (1885) (62):

“Ngày hai mươi tháng giêng năm Dậu
Quan Pháp sai bắt chúng tôi đi cùng”…


Và trong chừng mức nào đó, dẫu sao, ông cũng như một nhân chứng về cuộc kinh đô quật khởi, bốn tháng sau đó:

“… Vào lúc bảy giờ ngày hai mươi tháng sáu
[theo lịch Chăm (?)]
Quân Pháp đánh vào Huế, bắn phá dinh vua
Khói lửa bay tung mù trời
Quân nhà Nguyễn chết như kiến,
cả ngựa lẫn voi
Sau đó, quân Pháp tiến vào mở cửa thành
Binh lính trong thành sống sót,
chẳng biết đường nào mà đi
Mãi tới trưa mới tìm được lối ra
Bụng đói, mắt thâm quầng, chân run đi không nổi
Hoảng hồn bước lên rồi té ngã
Thêm choáng váng bởi thuốc súng,
người họ mệt lả bơ phờ
Có người bò trườn ra tới cửa thành
Vừa ngóc đầu lên nhìn
thì bị một tên lính Tây đứng gác,
nạt lớn không cho ra
Khi ấy [[nghe tin]] Tôn Thất Thuyết phò vua
Cùng chạy ra khỏi thành đi ẩn náu ở xứ khác
Nguyên soái [De Courcy] cho chạy tin
khắp Đất nước
Lệnh cho quân nhà Nguyễn
trong mười ngày
phải [[nộp vũ khí]] xin hàng
Tướng [Pháp chiếm cứ] trong triều [:hoàng
thành] cũng đã giao thành
Rồi [phụ chính Nguyễn Văn Tường trá hàng]
kí sắc lệnh chịu hàng
không chống Pháp nữa
Ngoài khơi, bảy chiến hạm chực sẵn
Sáng hôm sau, quân Pháp ra lệnh truy tìm
nhà vua…” (62).


Những sử gia đương thời, trong cuộc đã ghi chép rõ:

“Buổi chiều hôm ấy, [phụ chính Nguyễn] Văn Tường bèn bàn với quan Pháp, [ông] vào thành tạm đóng (đóng ở trong nhà Bộ Hộ).
Hôm sau (tức là ngày hai mươi bốn [24 (06.07.1885)]), [phụ chính Nguyễn Văn Tường và tên tướng Pháp De Cour-cy] bèn hội đồng yết thị cho hai nước hòa hảo như cũ.
Nhưng [bọn Pháp] cho [rằng phụ chính Nguyễn Văn Tường] ở trong thành là không tiện, lại bàn ra Nha Thương bạc, tạm đóng ở đấy làm việc. [Sau đó, ngày hai mươi bảy tháng sáu Ất dậu (09.07.1885)], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] bèn đem hiện tình giảng hòa, [cho lính chạy ngựa trạm] phi tấu nơi hành tại [:nơi vua và Tam Cung ở] và thông báo cho Nam, Bắc biết [phục chức cho những quan lính Cần vương trở về trong hạn định mười hai ngày, kể từ ngày ban hành bản tuyên bố]” (63)
.
Đó là hai văn kiện công khai, có tính chất đối phó, và tất nhiên, phụ chính Nguyễn Văn Tường đã có mật lệnh kèm theo.

11

“Lúc đó, trong đô thành, nhân dân hãy còn nhốn nháo, sợ hãi. Bọn gian đồ, phần nhiều đi cướp bóc ở ngoài mặt phố và các nơi làng xóm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường nghiêm sức [:nghiêm khẩn ra lệnh] [cho lính] đi tuần ngăn cấm. Viên huyện Hương Trà tức thì bắt được vài tên phạm ở hai chợ Nam Phố, An Hòa, đem chém đầu bêu ngay để cảnh cáo. Các bọn [trộm cướp, hôi của] khác nghe tin, đều dẹp cả” (64) .
Không những phụ chính Nguyễn Văn Tường phải lo toan ổn định kinh đô, ông còn phải lo lắng cử người ra tâu bàn với nhà vua, Tam Cung và đặc biệt là bàn bạc với quan đệ nhị phụ chính.
“[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường lại ủy [nhiệm cho] Binh Bộ thị lang là Phạm Hữu Dụng, [đích] thân đến hành tại [ở Quảng Trị], đem hiện tình bàn với [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, [và] tâu vua biết, định xin rước xe vua về. [Phạm] Hữu Dụng đến [nơi], bị [phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngăn cản. ([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết không tâu vua, nhưng dặn [Phạm] Hữu Dụng về báo với [phụ chính Nguyễn] Văn Tường:
+++ Phải nên đoàn kết với quân Pháp;
+++ [Pháp] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về).
[Phạm] Hữu Dụng sợ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, bèn từ về ngay, không dám tâu vua biết” (65)
.
Phụ chính Tôn Thất Thuyết lắng nghe thị lang Bộ Binh Phạm Hữu Dụng trình bày khá cặn kẽ những gì phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiến hành trong “thế hi sinh” tại Huế. Ông hết sức cảm phục và không khỏi áy náy, ái ngại khi nghe kể.
Phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng đã có ý định phải giả vờ hoà hảo với Pháp, bởi thật sự, ông hiểu triều đình Đại Nam bị cô lập và rất bế tắc hiện nay, kể từ sau khi Pháp và Trung Hoa đã kí kết hiệp ước Thiên Tân hồi cuối tháng tư nguyệt lịch vừa qua. Hơn nữa, ông lại hiểu hơn ai hết về tình trạng quân binh tan rã sau khi kinh đô quật khởi và bị thất thủ. Ông không phải không sáng suốt, không phải không nhận thấy rằng, trong tình hình này, cần phải hoà hoãn để tranh thủ thêm thời gian, tạo thế và lực mới, đồng thời thúc đẩy cho sự xuất hiện thời cơ mới, rồi kháng chiến mới có thể thành công. Nhưng thật lòng, ông cũng biết bọn Pháp hiện giờ đang lúc thừa thắng. Chúng đã đánh bại Phúc Châu trong lục địa Trung Hoa, lại đang vây Đài Loan, phong toả Trường Giang (sông Dương Tử), buộc Trung Hoa nhà Thanh đầu hàng. Pháp đang thừa thắng như thế, lẽ nào chúng bỏ mất thời cơ tốt đối với chúng! Cho nên, phụ chính Tôn Thất Thuyết vẫn phải đưa vua lên kinh đô kháng chiến Tân Sở, phát Dụ Cần vương một cách hùng tráng và có đủ tư thế uy nghi, như kế hoạch đã bàn với phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau đó, việc đưa vua về hay không sẽ tính tiếp. Ông cũng bàn kế hoạch với phụ chính Nguyễn Văn Tường là sẽ đưa vua về, còn ông sẽ tiếp tục kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp hoặc như Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, nhưng không núp dưới bóng cờ quân Thanh như họ, mà phải giữ cho được tính độc lập, tự chủ, tuy rất cần đến việc thiết cốt là phải tranh thủ viện trợ của các nước (nhưng đau xót thay, điều này hiện nay là bế tắc!). Kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp mật thiết, chặt chẽ với nhau đã vạch ra. Chính ông sẽ lãnh đạo các quan chức, sĩ dân trung nghĩa kháng chiến, còn vua Hàm Nghi và phụ chính Nguyễn Văn Tường sẽ tiếp tục “hai mặt”, “bì lí xuân thu” để triều đình Đại Nam có điều kiện viện trợ vũ khí, đạn dược, quân trang và lương thực cho quân kháng chiến của ông. Chiến phối hợp với đàm! Có điều, đưa vua Hàm Nghi về ngay lúc này là chưa tiện. Hẳn phụ chính Nguyễn Văn Tường muốn thúc hối ông lên Tân Sở ngay để phát Dụ Cần vương.
“[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì lấy ngày hai mươi bảy, kỉ mùi [09.07.1885], ép vua lên xe đi ra [:lên] Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].
(Khi ấy [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đã tâu xin Ba Cung cùng đi, nhưng Ba Cung có ý lần lữa. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết bèn [bí] mật cùng với bọn hỗ tòng là Hồ Văn Hiển, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ, lấy hôm ấy, ước [vào khoảng] giờ sửu [01 – 03 giờ khuya về sáng], hộ thánh giá [“thánh giá” = xe của nhà vua] đi Sơn phòng [Tân Sở].
Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản đều hiện tiếp tục đến hành tại. Các quần thần đều không biết gì cả. Sáng ra [họ] mới rõ việc.
[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết [lập] tức phái cho Phấn nghĩa quân về đòi Trương Văn Đễ, Ngô Tất Ninh đều tiếp tục lên [Sơn] phòng [Tân Sở].
Bọn Tôn Thất Phan đều lại về kinh. Duy Nguyễn Hanh, Đinh Tử Lượng, Lương Thành, phủ thần ấy bàn hãy lưu lại ở tỉnh ấy).
Do đó lòng người càng thêm ngờ sợ, không biết theo về đâu” (66)
.

12

“Riêng một hạt phủ Thừa Thiên, vì có [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở đó giảng hòa và [thường] hay [ra] hiệu lệnh ngăn cấm, hơi nhờ được yên. Còn dư [:ngoài ra], các hạt Nam, Bắc, thì bọn côn đồ tụ họp, cướp bóc nổi lên. Lương, giáo ngày thường thù nhau, sinh ra tàn sát lẫn nhau, nơi nào cũng có.
Đô thống Pháp lại yêu cầu [phụ chính Nguyễn] Văn Tường để chiêu tập quan lại, thôi bắt binh dân, hiểu bảo cho lương, giáo Nam, Bắc cùng yên và cấm sự xảy ra trộm cướp, hạn đến tháng [thứ] hai [:nhị nguyệt = 02 tháng] là thanh thiếp” (67)
.
Cũng như hai văn kiện trước, lần này De Courcy và De Champeaux lại ép buộc phụ chính Nguyễn Văn Tường ra tuyên cáo mới. Nội dung của nó là cả một nỗi đau lòng, và hạn định De Courcy đưa ra là cả một nỗi nhục nhã:
+++ 1. Triệu tập các quan chức trở về triều đình và nha sở để điều hành công việc.
+++ 2. Chấm dứt việc tăng cường lực lượng quân binh của triều đình. Trong khi đó, hiện tại triều đình do phụ chính Nguyễn Văn Tường lãnh đạo tạm thời chỉ còn một số quân binh rất ít ỏi, yếu kém!
+++ 3. Ra lệnh ngăn cản cuộc chiến tranh lương – giáo đang bùng nổ hầu như khắp Trung Kì, Bắc Kì.
+++ 4. Tăng cường trật tự, trị an xã hội (67).
De Courcy ra hạn định chỉ trong hai tháng! Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhẫn nại trong tình thế phải hoà hoãn. Ông tự nhủ với nỗi đau xót như cứa vào gan ruột:
“Ta đang ở trong thế võ thuật được gọi là thế hi sinh. Phải cố nhẫn nhục cho đại cuộc theo kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp chặt chẽ, và phải nhẫn nhục cho chính nghĩa vì nước, vì dân. Không còn cách nào khác”.
Và tất cả tấm lòng son của ông vẫn hướng về vua Hàm Nghi, Sơn phòng Tân Sở và Tam Cung ở hành cung Quảng Trị…
“Tháng sáu [nguyệt lịch, Ất dậu], ngày mồng một quý hợi [12.07.1885], vua [Hàm Nghi] ở Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].
(Khi ấy, sau [trận chiến], quân Phấn nghĩa bị thua, trốn, tan chạy. Quan Pháp treo thưởng cho người bắt được quân ấy. Bọn quân ấy bèn đều lục tục đến Sơn phòng theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết).
Ba Cung vẫn nghỉ xe ở hành cung tỉnh ấy. Trước [đó] vài ngày [tức trước ngày mùng một tháng sáu (tháng năm Ất dậu chỉ có hai mươi chín ngày)], [phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại uỷ [nhiệm] người gửi tâu, xin Ba Cung tiếp tục đi Sơn phòng [:Tân Sở]” (68).
“Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản vẫn bàn cùng [Tôn Thất] Lương Thành, cho [rằng] thành Quảng Trị là nơi phong trần, nghĩ xin Ba Cung [Tam Cung] hồi loan [:về lại kinh đô Huế]. [Ông] đã tư cho [phụ chính Nguyễn] Văn Tường biết [ý kiến của Tam Cung để] làm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường được tin báo [như vậy], bèn gửi thư đến khâm sứ Pháp là Tham Bô [De Champeaux] [để De Champeaux] trình bàn với đô thống Cô Ra Xy [De Courcy] thoả nghĩ phúc làm [:nghĩ suy cho kĩ, nếu đồng ý, trả lời lại để tiến hành].
Ngày mồng hai tháng [sáu] ấy (13.07.1885), [phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức tâu đệ trước xin Ba Cung hồi loan ở Khiêm cung, cho yên lòng dân. [Và ông] tịnh uỷ cho biện lí là Trương Như Cương, Tôn Thất Niêm kính đến rước” (69).

TẬP TÂU [CỦA PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG]

“Lược rằng (70):
“[Chúng] thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, vâng di mệnh tiên đế, cùng sung chức phụ chính. Nay mà hỏng việc, tội thần không nói sao cho hết. Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế. Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi. Huống chi kinh thành, miếu điện, lịch đại, sơn lăng, một buổi bỏ đi [là] như không. Lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy.
Nay tiếp tờ tư của Trương Quang Đản tỏ bày mọi lẽ, [thần] đã gửi thư cho khâm sứ Pháp [De Champeaux]. Cứ theo lời phúc tư [:thông tư trả lời] thì đô thống đại thần [De Courcy] rất mong rước vua về.
[Thần] cũng mong giữ gìn [được] cung điện như cũ. Duy trong thành ấy chửa tĩnh, cũng có người ngầm muốn nổ súng. [Nhược] bằng rước vua vào thành, sợ có [những nguy cơ] chưa tiện, xin hãy ngừng nghỉ ở Khiêm cung.
Đô thống [De Courcy] ấy xin phái một trăm (100) hay hai trăm (200) quân ở ngoài canh chực, để giữ khỏi sự quan ngại. Nhưng bọn quân ấy nên [:cần] dùng thứ ăn như trâu, dê, gà, vịt mọi thứ, ta cũng ưng cho.
Thần trộm chiểu cung điện trong thành dẫu còn như cũ, nhưng số quân Pháp ở đó khá nhiều, chưa được yên lặng, xin [vua và Tam Cung] trú ở Khiêm cung, tưởng cũng thoả thuận.
Thần nghiệp dĩ phái người kiểm soát, chỉnh đốn, tịnh uỷ [nhiệm] bọn thần [:bọn bầy tôi] là Trương Như Cương đi Quảng Trị chực đón, hỗ tòng [:đi theo xa giá]. Cúi xin mệnh giá hồi loan, để yên lòng dân” (70).
[Kí tên:
thần Nguyễn Văn Tường].
“Cuối cùng [của tập tâu], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] viết niên hiệu, mượn dùng ấn quan phòng của khâm sứ Pháp)” (70)
.

Viết xong, phụ chính Nguyễn Văn Tường trao cho De Courcy và De Champeaux xem, theo yêu cầu của chúng trước khi viết. Cả hai tên hiện đang ngồi ở Nha Thương bạc. De Champeaux có biết ít nhiều chữ Hán. De Courcy chăm chú theo dõi gương mặt của viên khâm sứ, kẻ đã luôn luôn quyết “đập tan tành” phụ chính Nguyễn Văn Tường. Y thấy De Champeaux cau mặt, quắc mắt lên trong một thoáng rồi vội giấu đi cái quắc mắt ấy. De Courcy muốn hỏi cho rõ nội dung bức thư.
- Tên phụ chính quỷ quyệt ấy đã viết cái gì thế?
- Lão già Đại Nam chết tiệt! Y viết thế này đây, tôi sẽ dịch ngay cho đô thống nghe. Nhưng quan đô thống đừng vội phẫn nộ. Dẫu sao, ta cũng cần lợi dụng lão thêm một, hai tháng nữa mà thôi.
De Champeaux dịch ra tiếng Pháp bằng giọng nói. De Courcy không thể không nổi giận. Nhưng ngẫm lại, y thấy lời khuyên của De Champeaux không phải là sai.
De Champeaux thưa với tên đô thống:
- Thưa đô thống, ông thấy có đáng ghét không chứ! Hay ta bảo lão phụ chính ấy viết theo dạng bản chúng ta thảo ra trước? Linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư sẽ giúp ta việc này.
De Courcy định tán đồng ngay, vì y rất muốn giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực, sự bức hiếp. Nhưng De Champeaux vội nói tiếp:
- Hay ta cứ để cho lão tự nhiên. Chắc lão không ngờ bức thư này lão viết lại gây cho ta khó chịu đến thế! Chúng ta quả thật cũng không hiểu tâm lí người Đại Nam cũng như người Đại Nam khó hiểu hết tâm lí người Pháp.
De Champeaux nói đúng, hai phía của mọi cuộc chiến tranh, kẻ xâm lược và người chống xâm lược khó hiểu nổi nhau.
De Courcy đâm bực mình với cả De Champeaux. Y cảm thấy tên khâm sứ này cũng đa đoan, nói thế này rồi bảo thế nọ, thật lắm chuyện.
- Thôi, sao cũng được, cứ đóng khuôn dấu Sứ quán Pháp vào bức thư. Ta chỉ cần nhà vua tí hon và ba bà lão Tam Cung ấy về Huế càng sớm càng tốt. Bọn ấy về đây xong, ta nắm lấy đầu chúng, bắt chúng tuân lệnh. Thế là gần hai chục triệu người thuộc dân tộc Đại Nam này phải tuân lệnh ta. – De Courcy chợt cười khoái trá một cách hung ác –.
De Champeaux gật đầu với cái nhếch mép và tiếng cười gằn. Y nói:
- Vâng, đó là mục đích của nước Đại Pháp và Hội Truyền giáo Paris. Còn tên Nguyễn Văn Tường, lão ta hận thù chúng ta, thúc giục quân binh chống đánh chúng ta, lại còn xúi Trung Hoa gây chiến tranh với chúng ta mấy năm trời, nhất là mười mấy tháng gần đây! Lão ta phải đền tội, nhưng, chưa vội…
De Champeaux lại đang lo âu về lòng căm giận của y đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, bởi y biết, ông ấy là “một người mà mới vài hôm trước, [và ngay cả hôm nay], cái tên làm rung động cả thành Huế, một người đã ngồi tới địa vị cao nhất của triều đình; người mà trong mấy năm sau cùng này đã giữ cả vận mệnh của nước Việt Nam [Đại Nam]. Người ấy là Văn minh [rồi Cần chánh] điện đại học sĩ kiêm phụ chính đại thần: Nguyễn Văn Tường” (71) . Uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường là một sức mạnh đáng sợ mà chính y, De Champeaux, phải dè chừng, không khéo phong trào Cần vương sẽ thổi bùng ngọn lửa căm hờn vào người Pháp, bọn viễn chinh và cố đạo thực dân.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường đang ngồi bên kia phòng, không hề hay biết hai tên thực dân đầu sỏ đang bàn với nhau về bức thư ấy và đang toan tính, cân nhắc âm mưu.
Phụ chính Nguyễn Văn Tường viết tập tâu này trong hoàn cảnh ông đang bị giam giữ ở Nha Thương bạc, dưới đôi mắt cú vọ của bọn Pháp và tay sai của chúng (72). Ngay khuôn dấu, ông cũng phải dùng khuôn dấu của Sứ quán Pháp, mặc dù vẫn viết niên hiệu Hàm Nghi. Do đó, lời lẽ không thật như lòng ông đang sôi sục căm thù bọn xâm lược Pháp. Khi trách móc phụ chính Tôn Thất Thuyết không cho đưa vua Hàm Nghi về như đã bàn với ông, ông cũng phải nói một cách kín đáo: “Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế [không chịu cho đưa vua Hàm Nghi để lãnh đạo bằng mật dụ như kế hoạch đã bàn]” (70) . Ông không phủ nhận việc ông cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc và nhất trí tiến hành cuộc kinh đô quật khởi. Ông cũng tính liệu đến thực tế những con người quen sống trong hoàng cung: “Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi” (70) . Cũng vì vậy, tuy là lí do giản dị, cụ thể đến tầm thường, mà ông phải nghĩ đến kế sách chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính. Nơi rừng núi ấy, dẫu khí hậu, lam chướng đã tốt dần, nhưng vẫn còn dày dặc sơn lam chướng khí. Nơi đó, ông đã tôi luyện mười mấy năm làm tri huyện, bang biện (và đấy là chưa kể năm năm dài tiễu phỉ ở núi rừng biên giới phía bắc). Nhưng thật ra, đó chỉ một lí do rất thứ yếu, nhưng ông nâng lên thành chính yếu, để bọn Pháp có thể tin được! Và chỉ một câu “Thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy” (70) cũng đủ cho bọn Pháp cau mày, khó chịu, thù ghét! Quả thật, De Courcy lẫn De Champeaux, chúng không hiểu rằng, đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, ông viết như thế là quá “nhẹ nhàng”, “nhẹ nhàng” đến mức ông rất chua xót, đau đớn, vì phần nào trái lòng. Vả lại, ông cũng không phải không muốn nói thẳng vào mặt hai tên xâm lược thuộc loại đầu sỏ ấy rằng, ông chỉ tạm thời chấp nhận “thoả hiệp” với chúng, chứ không đầu hàng, khuất phục chúng bao giờ! Ông những muốn tấn công chúng cho chúng thật tan tác, quét sạch chúng khỏi Đất nước ngay tức khắc, chứ đâu phải cam đành “thoả hiệp”, “đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại” (70) như thế!
Nhận được tập tâu ấy, “Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưỡng cung [hai cung: hoàng thái hậu Vũ thị, hoàng thái phi Nguyễn Văn thị] chuẩn như lời tâu, lấy ngày mồng ba, ất sửu [14.07.1885], thì hồi loan.
(Phủ thần là Trương Quang Đản đem quan quân binh phu tỉnh ấy theo đi hộ tống).
Ngày mồng năm, đinh mão [16.07.1885], [Tam Cung] về đến Khiêm cung.
([Trương] Quang Đản lại trích giải hai trăm (200) thoi bạc kho của tỉnh ấy, [loại] ăn sáu đồng, tiền đồng, một trăm (100) quan, [mang] theo, đến cung tiến)” (73)
.

13

“[Phụ chính] Tôn Thất Thuyết còn giữ [xa] giá vua còn đóng ở [Sơn] phòng Quảng Trị [:Tân Sở], đã kèm vua ra Lệnh dụ Thiên hạ cần vương [đây là Dụ Cần vương chính thức và duy nhất], lại sẽ dụ bảo Nguyễn Văn Tường và yên ủi những người họ mạc ở trong kinh. [Mỗi thứ] đều một đạo, do đường dịch lộ chuyển chạy về kinh.
(Khi ấy tự [Sơn] phòng [Tân Sở] đến kinh, ống trạm còn chuyển đệ được).
Đó đều là việc từ mồng bảy tháng này [18.07.1885] trở về trước” (74).

LỆNH DỤ THIÊN HẠ CẦN VƯƠNG

“Từ xưa chính sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh [chiến], giữ [thủ], hoà mà thôi.
Đánh thì chưa có cơ hội.
Giữ thì khó chắc đủ sức.
Hoà thì chúng đòi hỏi không chán.
Đang lúc thế sự muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dùng QUYỀN [NGHI, QUYỀN BIẾN].
Thái vương dời tới đất Kỳ, Huyền Tông chạy sang đất Thục, người đời xưa cũng đã có làm như thế.
Nước ta gần đây gặp nhiều biến cố. Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, chưa kịp lo việc tự cường, tự trị. Bọn phái viên của Tây hoành hành áp bức ngày một thậm tệ. Vừa rồi chúng tăng thêm binh thuyền, buộc ta những điều không thể làm theo được. Ta theo thường lệ khoản đãi, chúng không chịu nhận một tí gì. Nhân dân kinh đô náo động, kinh sợ nguy biến sắp tới nơi. Các vị đại thần mưu quốc tìm kế giữ yên xã tắc, bảo vệ triều đình: [Nếu] cứ cúi đầu nó bảo gì nghe nấy, ngồi yên để mất cơ hội thì sao bằng dò xem ý chúng muốn hành động mà đối phó trước? Ví thử việc chẳng chịu lòng, thì còn có thể làm như ngày nay để mưu tính việc về sau cho ổn. Ấy là tuỳ theo thời thế mà định ý kiến như thế. Phàm những ai biết chia lo việc nước, tất cũng dự biết như vậy, mà cũng đều nghiến răng căm phẫn. Cái lòng giết giặc, giết thù, nào ai chẳng có. Vậy thì gối đòng, gõ chèo, cướp giáp, vần chum, há không có người nào hay sao? Kẻ nhân thần ở triều đình chỉ nên theo nghĩa mà làm, nghĩa ở đâu thì chết sống cũng ở đấy. Xưa Hồ Yển và Triệu Thôi nước Tấn, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật đời Đường là hạng người thế nào?
Trẫm đức mỏng, gặp phải biến cố này, không thể hết sức chống giữ, để kinh thành bị hãm, Từ Cung phải lên xe lánh nạn. Tội ở mình trẫm tất cả, hổ thẹn vô cùng. Nhưng mối luân thường quan hệ, trăm quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, chắc không nỡ xa bỏ trẫm. Người trí giúp mưu, người dũng giúp sức, người giàu xuất của để giúp quân nhu, cùng nhau đoàn kết, chẳng ngại nguy hiểm, làm cách gì mà có thể cứu nguy, đỡ ngã, gỡ chỗ khó, giúp khi bí, thảy đều hết lòng hết sức. May mà trời cũng chiều người, chuyển loạn làm trị, chuyển nguy làm an, thu lại đất đai, phục lại bờ cõi, cơ hội này thật phúc cho nước nhà, tức là phúc cho thần dân. Đã cùng nhau lo lắng được thì cùng nhau yên vui, há chẳng tốt lắm ru?
Nhược bằng lòng tiếc chết nặng hơn lòng thương vua, việc lo cho nhà chăm hơn việc lo cho nước, quan thì thác cớ lánh xa, lính thì bỏ ngũ lánh trốn, dân thì không biết vì nghĩa, hăng hái với việc công, sĩ thì cam chịu bỏ nơi sáng đi vào nơi tối, như thế dù có sống sót ở đời thì thân tuy mặc áo đội mũ mà không khác loài chim muông. Sao nỡ làm vậy cho đành?
Thưởng hậu, phạt cũng nặng, triều đình sẵn có phép thường, không nên để điều hối hận về sau. Ai nấy nên nghiêm chỉnh tuân theo dụ này.
Khâm thử!
Hàm Nghi năm đầu, tháng sáu, ngày mùng hai (13.07.1885)” (75).
Tuyên dụ tại Sơn phòng Tân Sở, Cam Lộ, Quảng Trị.

“NGÀY MỒNG HAI [THÁNG SÁU (13.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG” (76):

“Lược nói:
“Y [Cô Ra Xy (De Courcy)] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lí thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc”]. Phàm những khoản gì bách thiết [:bức thiết], [thì ngươi cùng chúng] chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau, mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này [:lúc đó] ta [sẽ ban] mệnh [lệnh] cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư. Nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.
Nếu không như thế thì các miếu xã, lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ [nhiệm] cho khanh. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời. Rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh thua vậy.
Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa, tài lược, không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [:nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh nên nghĩ cho kĩ nhé. [Khanh] có muốn nên [:cần phải] tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét, cũng chẳng hại gì”” (76).

“NGÀY MỒNG BẢY [THÁNG SÁU (18.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI] CÁC NGƯỜI TRONG HỌ” (77):

“Đại lược nói:
“Dụ Thọ Xuân vương, phụ chính Hoài Đức công và các bọn hoàng phiên công chúa, nghĩ coi: Nước Nam ta nhiều lần bị kẻ khác bức hiếp nhiều khoản, phàm có tai mắt khí huyết không ai là không uất ức buồn rầu, chẳng riêng người trong họ ta mà thôi. Trẫm vâng di mệnh của tiên quân, và các vương công phụ thần cùng suy tôn lên quyền giữ việc nước. Phàm có trăm điều đều duy kiến nghị, phải ấy thì theo. Trẫm tuổi trẻ, kiến thức chưa rộng, dám đâu chuyên trái việc gì, cho nên hễ khi tiếp được thư của nước Đại Pháp gửi đến khoản gì, nếu quá lăng nhục và yêu sách quá đáng, nhân tình không thể chịu được, mật nghe vương công và các phụ chính khuyên bảo, không đâu là không cưỡng tự đau đớn nín náu, chịu theo êm việc, vì muốn bảo toàn xã tắc, để họ mạc lâu dài hưởng tôn quý giàu sang vậy. Không ngờ sứ Pháp ngang ngược ngày thêm, không còn được chút quốc thể, cúi xuống đất, ngửa lên trời, xiết bao hổ thẹn, vạn bất đắc dĩ mà phải làm ra việc này. [Trẫm] quay nhìn nơi lăng miếu và các bậc ý thân, thực không biết bao nhiêu là tưởng nhớ, chả biết trong tôn tộc từng có tin đến sự lo xuôi nghĩ ngược của ta không?
Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh [tức là Nguyễn Văn Tường] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn. Huân thần [:Nguyễn Văn Tường] tâm sự như thế, cáng đáng như thế, [huân thần ấy] thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần [Nguyễn Văn Tường] ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định.
Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất, nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời. Thế là lành lắm, tốt lắm.
Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay. [Vậy] càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ.
Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường.
Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng”” (77)
.

Ngoài “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” vốn đã được soạn thảo trước, hai bản dụ ấy do chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi cùng viết. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc bấy giờ còn bị giam giữ ở Nha Thương bạc với sự canh giữ của một toán lính Pháp và Ả Rập, toán lính này đặt dưới sự chỉ huy của tên sĩ quan Schmitz (72), nên ông chỉ được nghe hai bản dụ ấy qua một viên quan tham biện. Hôm ấy, còn có mặt tham tri Hoàng Hữu Thường, thị lang Phạm Hữu Dụng… Viên quan tham biện này học thuộc lòng rồi đọc nhỏ lại cho ông nghe, như thể đang trò chuyện.
Hơn lúc nào hết, trong lúc bị giam giữ như một người tù, phải chấp nhận “thế hi sinh” để chống lại bọn xâm lược Pháp và “tả đạo” này, phụ chính Nguyễn Văn Tường rất đỗi xúc động, xúc động đến nghẹn ngào khi nghe đọc hai bản dụ đó trong khi đi dạo quanh trong khuôn viên Nha Thương bạc. Lúc ấy, bọn lính Pháp và Ả Rập và cả bọn tay sai, mặc dù để mắt theo dõi, nhưng chúng cũng chả làm gì được đối với người tù đầy uy thế mà cả chủ tướng De Courcy, chính phủ Pháp ở Paris cũng không thể không nể nang.
“Dụ Nguyễn Văn Tường” “Dụ người trong hoàng tộc” , phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa nghe, sau khi ông và không một ai không biết “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”. “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương” “Dụ Nguyễn Văn Tường” được phát đi, gửi về trong cùng một ngày. Đó là ngày mùng hai, tháng sáu, Ất dậu (13.07. 1885). Điều đó đã xác quyết về quốc kế chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính, giữa “kẻ ở” với “người đi”, giữa đàm và chiến.
Bọn Pháp, nhất là những tên trùm gián điệp như giám mục Puginer, mãi đến năm năm sau, càng khẳng định về Lệnh dụ thiên hạ Cần vương :
“Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng ba chục ngàn (30.000) giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng hai tháng và hơn một ngàn (1.000) người [Pháp…] khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…” (78) .
Đó là sự khẳng định trong một bản điều trần gửi các nhà chức trách Pháp, Puginier viết vào ngày 09.03.1890. Có điều, con số ba mươi ngàn ấy là số lượng gồm cả những kẻ xu thời lẫn “tả đạo” phản quốc, chứ không phải giáo dân lương thiện! Tất cả những ai theo giặc Pháp, Puginier đều dán lên nhãn hiệu “giáo dân”! Thật sự, khá nhiều nơi, linh mục Việt và giáo dân “tả đạo” đúng nghĩa (bởi đã thực sự phản quốc!), theo lệnh các cố đạo gián điệp Pháp, hung tợn đánh phá các phủ, huyện để phục thù các quan lại Đại Nam và để cướp chính quyền! “Tả đạo” phục thù bằng cách tàn sát nhân dân kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh, và “tả đạo” cướp chính quyền khi kinh thành thất thủ là điều mà phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiên liệu. Do đó, ông đã chặn trước Caspar, De Courcy, De Champeaux, ngay vào sáng ngày hai mươi ba tháng năm máu lửa ấy (05.07. 1885). Thật sự, chiến tranh lương – giáo trên khắp Trung – Bắc Kì không thể không xảy ra, và trong thực tế đã xảy ra!
Những ngày thượng tuần tháng sáu Ất dậu (1885) bừng dậy ngút trời khí thế Cần vương! Phụ chính Nguyễn Văn Tường cùng Hoàng Hữu Thường, Phạm Hữu Dụng và vài viên tham biện khác tuy phải “đi dạo” trong sân vườn Nha Thương bạc, nhưng trong lòng họ vẫn cháy bùng lên ngọn lửa Cần vương với niềm cảm xúc hào hùng, bi tráng.
Ngoài kia, không xa lắm, dòng sông Hương bừng chói trong nắng cuối mùa hè.

Hết tệp 3
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

Khởi viết từ 07 giờ 41
sáng ngày 17.01.2003
(15.12 Nh. ngọ HB.3)
Viết đến dòng chữ này vào lúc 17 giờ 07 phút,
ngày 24.01.2003 (22.12 Nh. ngọ. HB.3).
TRẦN XUÂN AN


(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, bản dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1976, tr. 214 – 215; Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN.NSKLS), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 253 – 254.

(2) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 215.

(3) Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển 3, Nxb. ĐH. & THCN., 1985.

(4) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 550.

(5) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp. HCM. tái bản, 2001, tr. 533.

(6) Dẫn theo tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kì (chủ yếu do Puginier viết) trong: Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, bài “Cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục của nhà nước phong kiến Việt Nam những năm 80 thế kỉ XIX”, tham luận của GS. Nguyễn Văn Kiệm, kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử, ĐHSP. TP. HCM., 20.6.1996, tr. 11, 14. Xin xem trích dẫn theo chú thích (14) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(7) ĐNTL.CB., tập 30, sđd., 1974, tr. 162 – 163 (tháng giêng nguyệt lịch, Ất sửu, 1865); tập 31, sđd., 1974, tr. 49 (tháng bảy nguyệt lịch, Bính dần, 1866).

(8) VN.NSKLS, tập 1, Nxb. KHXH., sđd., 1981, tr. 203.

(9) Xem: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản in vi tính, 2001 (chưa có điều kiện xuất bản rộng rãi).

(10) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 28. Cần khẳng định thật rõ ràng và mạnh mẽ: “làm ngầm” (thủ tiêu) là một việc làm cho dẫu với mục đích chính nghĩa thì cũng mờ ám. Đó là biện pháp đối phó ở thời đại thế giới bị bưng bít thông tin, bọn thực dân, “tả đạo” phi nghĩa cầm quyền ở các nước Âu Mỹ đang thắng thế trên toàn cầu, hoàn toàn thao túng sách báo tuyên truyền, kích động giáo dân ở chính quốc. Trong giai đoạn diễn ra cuộc bùng nổ thông tin hiện nay, nhân dân các nước trên thế giới không còn bị “bưng tai, bịt mắt”, bị tuyên truyền theo luận điệu kích động, nên việc nhận định, đánh giá biện pháp “làm ngầm” (thủ tiêu) thực hiện trong thời điểm hiện tại phải được căn cứ trên một tiêu chí khác hẳn. Nói rõ hơn, nếu hiện nay, chế độ nhà nước nào còn thực hiện biện pháp “làm ngầm” (thủ tiêu), phải bị cực lực lên án! Không thể biện minh!

(11) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 216.

(12) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 545.

(13) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút.), bài “Các gia đình thế gia vọng tộc ở nước Nam: ngài Nguyễn Hữu Độ” của L. Sogny, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, tập XI (1924), Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 262 – 263.

(14) Xem chú thích (6) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(15) Gosselin, L’Empire d’Annam, dẫn theo: Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, tr. 59; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549. Về ba cuốn sách này, cũng như các cuốn sách tham khảo khác, tôi đã có dịp phê phán trong khi tiếp thu (theo tinh thần nghiên cứu khoa học).

(16) Trích nguyên văn Phan Trần Chúc, VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58.

(17) Gosselin, L’Empire d’Annam, dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549.

(18) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 58.

(19) Dẫn theo: Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn (CTN.), Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 95.

(20) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 59; CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 549.

(21) ĐNTL.CB., tập 37, sđd., 1977, tr. 171 – 172.

(22) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 216.

(23) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 217.

(24) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 218.

(25) Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp.HCM., 1993, tr. 480 – 481.

(26) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 209.

(27) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219.

(28) VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 62; VN.NSKLS, tập 1, Nxb. KHXH., sđd., 1981, tr. 255.

(29) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 95 – 96.

(30) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 504 – 505. Về vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), ở tập I, bộ truyện kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này, tôi đã minh định: Quang Trung và phong trào Tây Sơn là lực lượng đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử rất bức thiết của dân tộc ta thuở bấy giờ (thống nhất Đàng Trong – Đàng Ngoài, đánh đổ cả Nguyễn lẫn Trịnh). Có một điểm rất tiếc là về gốc gác xa đời (gốc Tàu) của Quang Trung. Vì lí do đó, trong nhân dân ta bấy giờ, có nhiều người không ủng hộ. Mặt khác, lại có một bộ phận nhân dân nhớ ơn chúa Nguyễn về công lao khai hoang, mở đất. Ca dao Nam Bộ có hai câu hầu như ai cũng biết: “Lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra”. Xin nêu ra để tham khảo thêm.

(31) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(32) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225 – 226.

(33) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219 – 220. Xin xem đoạn trích theo kí hiệu chú thích (39) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(34) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 96 – 97.

(35) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 551: Việc Bà Từ Dũ cử người tặng quà cho De Courcy, y không nhận, là diễn ra sau cuộc hội đàm này, chứ không phải cùng một lúc.

(36) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 8.

(37) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 96.

(38) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 97.

(39) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 219 – 220.

(40) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 97 – 98.

(41) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang, tập 1, sách in vi tính, 247 – 248, 282 – 283: Sau khi về châu Âu, vào năm 1907, giám mục Caspar liền sang yết kiến giáo hoàng La Mã Piô X [năm ở ngôi: 1903 – 1914] (hẳn để báo cáo quá trình công tác!), rồi mới về nghỉ hưu tại quê quán (Obernai, miền Alsace) ở Pháp. Ông ta chết vào năm 1917, thọ 75 tuổi (có 27 năm lãnh đạo giáo phận Huế).

(42) Dẫn theo: VHN., Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, sđd., tr. 65; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 552.

(43) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 98.

(44) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 220.

(45) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 256.

(46) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 197.

(47) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 220 – 221.

(48) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 99 – 100.

(49) CTN., Nxb. Thuận Hoá, 1990, sđd., tr. 100 – 101.

(50) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(51) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 221, 230 . “Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường đem lão cung và xe vua ra [khỏi] thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: “Lui cùng quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân”” (sđd., tr. 230). Xem thêm: Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca (HTC.), (Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, chú thích…), Nxb. Tân Việt, 1950, tr. 39 – 40: “Thấy người trước đón lên đường, Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”, Phán rằng: “Sự đã dường này, Ngươi tua [:lo; nên ] ở lại, ngõ rày xử phân”,Vâng lời Tường mới lui chân, Giá ra khỏi cửa, dân lần dõi theo”. Và ở “Dậu Tuất niên gian phong hỏa kí sự” (trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc”[!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517): “Thuyết – Tường sanh sự sự sanh [?!], Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng, Cùng nhau bàn luận rứa răng, Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu, Khéo làm chước nhiệm [nhịn?] mưu sâu, Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình”. Cho dù với cách diễn đạt theo quan điểm thuộc chính kiến nào đi nữa, hai đoạn thơ trên cũng phản ánh về một sự thật lịch sử!

(52) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(53) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 230. Xem chú thích (51) của truyện kí - khảo cứu thứ mười hai này.

(54) Tôi hư cấu nội dung bức thư này xuyên qua các sự kiện lịch sử đã được ghi nhận trong ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976.

(55) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

(56) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221 – 222.

(57) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(58) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(59) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế” của H. Le Marchant de Trigon, Đặng Như Tùng dịch, Tôn Thất Hanh hiệu đính, Nhị Xuyên, Lê Văn biên tập, tập IV (1917), Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273: “Than ôi, ngay ngày hôm sau [tức là ngày kế tiếp ngày 29.8.1875], những thủ đoạn phá rối có hệ thống [:đấu tranh chống Pháp bằng ngọai giao…] của Nguyễn Văn Tường kéo dài cho đến ngày chiếm cảng Thuận An [8.1883], và còn về sau này, cho đến khi đày kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, và trong thời gian [bị lưu đày] đó, [Nguyễn Văn Tường] chẳng chịu hiểu biết gì cũng chẳng chịu quên gì” (lưu ý cách diễn đạt đậm màu sắc thực dân của H. Le Marchant de Trigon).

(60) Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn khá xác thực, chỉ để tham khảo thêm:

“Đô thành, quan Quận giao hòa
Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây
Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:
“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy
Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn
Người mà phiêu lạc núi non
Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu
Tây phiên thúc thủ thụ đầu
Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành
Tây phiên trở lại Tây thành
Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi
Họ không cho đâm nhánh mọc chồi
Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”
Quan Quận khi ấy nói qua
Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:
“…”
Quan một cho đến quan ba
Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!
Đòi triệu các quan tỉnh trở về
Sự tình y ước cho ra bề đục trong
Tin thì tin, dạ còn phòng
Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”
.

Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”, trá hàng [và có thể nói thêm, là vấn đề “Nam Việt”! (Bắc Việt đã bị “bảo hộ” theo chính sách thực dân “chia để trị”)].
Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết. Về vấn đề này, xin xem thêm: Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Del-vaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 54: “Triều đình thấy nguy cơ mất độc lập, đã bàn bạc ngầm các phương kế để chận đứng sự lấn chiếm của Pháp. […] Tôn Thất Thuyết, […] Nguyễn Văn Tường đã lôi kéo Hội đồng Cơ mật thoả thuận hai vấn đề quyết định như sau: Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng lúc tất cả giáo dân trong toàn quốc [!sic!]. Sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển Triều đình và Chính phủ đến một pháo đài kiên cố, và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm. Đó chính là Cam Lộ hay đúng hơn là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết lực lượng ái quốc, là nơi Triều đình sẽ tạm dừng chân. Các chuẩn bị kì quặc để hình thành do những kỉ niệm quá khứ [của Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ], thảm hại thay, lại đã được thực hiện một phần lớn”. (Aldophe Delveaux); VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 554: “Tôn Thất Thuyết […] làm hịch Cần vương truyền đi khắp nơi […]. Sách tây chép rằng […] dân bên đạo phải tám ông cố và hơn hai vạn người bị giết” (Trần Trọng Kim). Các cố đạo Pháp thổi phồng quá đáng, chỉ nhằm mục đích kích động giáo dân ở “mẫu quốc” (!) và biện minh cho sự xâm lược (cướp nước, bóc lột và nô dịch) của thực dân Pháp!

(61) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 237.

(62) Inrasara (sưu tầm, phiên dịch, giới thiệu), Văn học Chăm II – Trường ca (VHC.II. TC.), trong đó có trường ca [ariya] “Po Parơng” (Trường ca “Quan lớn Pháp”) do Hơp Ai viết, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1996, tr. 171 – 173.

(63) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

(64) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222 – 223.

(65) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(66) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(67) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

(70) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224 – 225. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh (ĐHSP. Huế), trong các tập châu bản Nguyễn Văn Tường, có một bản sớ phụ chính họ Nguyễn phân trần với Tam Cung về biện pháp cuối cùng: “… Lấy mặt cười vui để đối phó bàn tay hung bạo, mở tấm chân chành để thông suốt đá cứng, tuy [với biện pháp đó] không thể lấy làm mạnh, mà chỉ có thể làm kế lâu dài…” (Kỉ yếu HNKHLS., ĐHSP. Tp. HCM., 20.06.1996, tr. 41). Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc còn trích dẫn châu bản: “… Huống nay sức kiệt của mòn, hai kì rách nát, sau khi đã bôn bá lưu li, mà nói là có thể mưu khôi phục, như thế khác gì kẹp núi mà vượt biển, có lí lẽ đúng chăng?” ; “… dời kho tàng, đặt phòng thủ cũng vì bởi cái lo chưa phát khởi mà dự phòng, không phải lấy điều đó mà mưu tính với người [:giặc Pháp]”. Vẫn theo Trần Viết Ngạc, công việc Cần vương đã chuẩn bị từ 1883, nhưng đến tháng 07.1885, chưa phải là lúc để nổ ra trận chiến ngay tại kinh đô, mà thời, thế, cơ bấy giờ bắt buộc phải có thêm một quãng thời gian hòa hoãn, cầm cự để tích cực chuẩn bị thời, thế, cơ mới (tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 56). Phát biểu trong hội thảo 02.07.2002, sau khi dịch giả Trần Đại Vinh đọc toàn văn bản sớ mà Trần Viết Ngạc trích dẫn nêu trên (có đoạn Nguyễn Văn Tường phê phán cả sự nóng vội của Tôn Thất Thuyết…), nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã (ĐH. Hùng Vương Tp.HCM.) cho rằng đó là một cách nói của Nguyễn Văn Tường với mục đích đối phó, tạo sự tin tưởng ở Pháp, ở phe chủ “hòa” nhằm củng cố lại triều đình, để thực hiện sách lược “hai mặt”. Trong tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 59 – 83, tôi đã có bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”, viết về vấn đề này. Mong rằng toàn bộ châu bản liên quan đến Nguyễn Văn Tường sẽ được giám định khoa học thực nghiệm để chính thức công bố bằng xuất bản. Xin xem lại bản sớ khác trích dẫn từ ĐNTL.CB. và đoạn truyện kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tôi theo chú thích này.

(71) VHN., Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, sđd., tr. 81.

(72) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 77; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 552 – 553.

(73) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(74) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

(75) Phan Canh, Đào Đức Chương, Thơ ca Việt Nam thời Cần vương (TCVNTCV.), bài Lệnh dụ Thiên hạ cần vương, bản dịch của Lê Thước, Nxb. Văn Học, 1997, tr. 16. Xem thêm: Trung – Pháp chiến tranh tư liệu, tập 7; Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, với bản dịch của Chu Thiên Hoàng Minh Giám.

(76) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225 – 226.

(77) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 226 – 228.

(78) Dẫn theo tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kì (chủ yếu do Puginier viết): Xem chú thích (6) của truyện kí thứ mười hai này.

Chú thích xong lúc 18 giờ kém 05 phút,
ngày 20.02.2003 (20.01 Quý mùi HB.3).


TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 3
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

Xin xem tiếp tệp 4
(Phân đoạn 2 truyện kí thứ 12)
thuộc bộ sách “PCĐT. NVT.”.